quăn tít rơi đầy sàn nhà và trên rèm cửa sổ, cho đến lúc Kochu Maria quét
chúng vào cái hót rác nhựa, không khí nặc mùi khét.
Chẳng có gì thay đổi, trời mưa tháng Sáu.
Trời đã mở cửa, nước trút xuống làm cái giếng cổ trơ trơ như sống lại,
chuồng lợn rỗng không xanh những rêu, những vũng nước mầu vàng làm ta
liên tưởng đến những hố bom. Thảm cỏ xanh tươi và thỏa thuê. Mặt đất vui
tươi phủ một lớp bùn loãng mầu đỏ tía. Những cây tầm ma mầu xanh gật
gù. Các cây to cong oằn xuống.
Xa hơn nữa, trong gió và mưa, trên bờ sông, trong bóng tối đen của sấm
sét ban ngày, Estha đang đi dạo. Anh mặc một chiếc áo sơ mi cộc tay mầu
dâu chín, lúc này ướt đẫm nên trông càng sẫm mầu hơn, anh biết Rahel đã
đến.
Estha là một đứa trẻ lúc nào cũng lặng lẽ, không một ai biết chính xác
em ít nói đến đâu và lúc nào em không nói (là năm, nếu không là tháng
hoặc ngày). Đó là chuyện em không nói hoàn toàn. Thực ra thì không phải
“chính xác là bao giờ”. Nó như một cánh cửa hạ xuống từ từ rồi đóng hẳn
lại. Một sự kín đáo rất dễ nhận thấy. Dù sao, em chỉ tránh chuyện trò và bỏ
đi không nói gì. Sự im lặng của Estha chẳng làm phiền ai. Không bao giờ
bắt người khác chịu đựng mình. Không bao giờ ồn ào. Không một lời kết
tội, phản đối sự im lặng, cứ như một dạng ngủ hè, một loại cân bằng tâm lý
của loại cá thở bằng phổi, tự tìm cho mình cách sống qua mùa khô, trừ một
điều trong trường hợp của Estha là mùa khô có vẻ như kéo dài vĩnh viễn.
Càng ngày Estha càng có khả năng hòa nhập vào tình trạng trầm lặng ở
bất cứ nơi nào có em - vào giá sách, khu vườn, rèm che, cửa ra vào, đường
phố - không hề bị kích động, hầu như những con mắt không có kinh nghiệm
không thể nhận ra. Nó thường làm cho người lạ thoáng chú ý đến em, lúc
họ ở cùng phòng với em. Họ càng chú ý em nhiều hơn vì em không bao giờ
nói. Một vài người lại chẳng hề chú ý gì hết.