Hồi ức của chị về những ngày tiếp theo thật mờ nhạt. Nhiều giờ dài
dằng dc, lờ mờ, lặng ngắt như lưỡi bị tưa, dầy lên (bác sĩ Verghese Verghese
chỉ định thuốc men), bỗng xé rách bởi cơn cuồng loạn, sắc như cắt bằng
một lưỡi dao cạo, mới tinh.
Chị mơ hồ thấy Chacko - giọng ân cần và dịu dàng lúc ở bên chị -, thấy
khói nhanh, khói trầm như một ngọn cuồng phong thổi qua Ngôi nhà
Ayemenem. Khác hẳn với Con Nhím Nhàu nhò vui tính mà chị đã gặp một
buổi sáng xa xưa ở Oxford, trong tiệm cà phê.
Chị chỉ nhớ lơ mơ đám tang trong ngôi nhà thờ màu vàng. Tiếng hát
buồn bã.
Một con dơi quấy rầy một người nào đó. Chị nhớ tiếng cánh cửa đóng
sập xuống, những giọng đàn bà hoảng sợ. Và ban đêm, tiếng dễ nỉ non như
tiếng bậc thang nứt càng tăng thêm nỗi sợ và sự u ám lơ lửng trên Ngôi nhà
Ayemenem.
Chị không bao giờ quên cơn giận vô lý trút lên hai đứa trẻ khác, vì một
lý do nào đấy trở nên thừa. Đầu óc bừng bừng của chị bám chặt lấy ý niệm
Estha phải chịu trách nhiệm về cái chết của Sophie Mol. Thật lạ lùng, vì
Margaret không biết rằng Estha đã phá vỡ quy định, chở Sophie Mol và
Rachel qua sông bằng con thuyền bé nhỏ đó. Estha đã biến hiên sau trong
Ngôi nhà Lịch sử thành nhà của các em, bầy biện trên tấm chiếu cỏ hầu hết
đồ chơi của chung: một cái súng cao su, một con ngỗng căng phồng, một
con koala Quantas, mắt bị long ra. Và cuối cùng, trong cái đêm khủng khiếp
ấy, Estha đã quyết định răng nhân tối trời và đang mưa, Đúng Lúc cho các
em chạy trốn, vì Ammu không còn muốn có các em nữa.
Dù không biết những điều ấy, nhưng sao Margaret Kochamma lại
nguyền rủa Estha vì việc xảy ra với Sophie? Có lẽ chị có bản năng của
người mẹ.