thấy một hàng những cái đầu trọc qua cửa xe, phía trên những vệt nôn đều
đặn. Em khá tò mò về chuyện nôn mửa. Em chưa bao giờ bị nôn. Chưa một
lần nào. Estha thì có, lúc nôn da em bóng lên và nóng rực, cặp mắt em tuyệt
vọng và đẹp, còn Ammu thương em hơn thường lệ. Chacko nói Estha và
Rahel là những đứa khỏe mạnh quá mức. Cả Sophie Mol cũng vậy. Bác nói
vì chúng không phải là sản phẩm của cảnh kết hôn với bà con họ gần như
hầu hết những người Thiên chúa giáo Syria. Cả những tín đồ đạo Pacxi
[7]
nữa.
Mammachi nói các cháu bà còn chịu cảnh tồi tệ hơn cả lấy bà con gần
gũi. Bà muốn ám chỉ bố mẹ chúng đã ly hôn. Dù ai cũng chỉ có thể chọn
một trong hai cách: kết hôn với người họ gần hoặc ly hôn.
Rahel không tin điều đó, nhưng bất chợt thấy những bộ mặt buồn bã, nó
lại nhìn vào gương. “Việc đó còn tốt hơn xa những việc mình làm, những
việc mình đã từng làm”, Rahel buồn bã tự nhủ. Rahel nhớ đến bức tranh
minh họa vở kịch cổ điển Truyền thuyết về hai thành phố, em như Charles
Darnay đứng trên các bậc đợi lên máy chém.
Em băn khoăn không biết vì sao những người hành hương kia lại nôn
giống nhau đến thế, liệu có nôn cùng lúc như hát đồng ca không (có lẽ theo
nhịp nhạc trong xe), hay mỗi người nôn một lúc riêng.
Lúc đầu, khi thanh chắn mới hạ xuống, bầu không khí đầy ắp những
tiếng động cơ không chạy nghe thật sốt ruột. Nhưng lúc một người đàn ông
chân bị gập ra sau, vừa khập khiễng vừa lê bước từ trạm điện thoại ra, vào
một quán trà, và chắc phải đợi lâu, các lái xe bèn tắt máy, duỗi thẳng chân
nghỉ xả hơi.
Thanh chắn đường vừa gật gù, mỏi mệt hạ xuống như một câu thần chú,
những kẻ ăn mày băng bó cùng mình, những người đàn ông bưng khay bán
những miếng dừa, những miếng bánh chuối. Và nước lạnh nữa. Côca-Côla,
Fanta, Rosemilk.