băng đã rơi khỏi trần và nằm bện trên nhà. Đĩa trong chậu rửa khô cong và
đóng cặn. Khăn trải bàn ăn lấm bẩn. Bàn cà phê ố những vết vàng của chén
trà.
Tôi tìm thấy những Kẻ dối trá đang quây quần trong phòng ngủ của
Mirren, tất cả đều đang nhìn quyển Kinh thánh.
“Tranh cãi ghép từ,” Mirren nói ngay khi tôi tiến vào. Cô bạn đóng cuốn
sách lại. “Gat đã đúng, như mọi khi. Cậu luôn đúng khiếp đi được, Gat à.
Con gái không thích thế ở một chàng trai đâu, cậu biết đấy.”
Những quân xếp chữ nằm vương trai khắp sàn phòng lớn. Tôi thấy chúng
khi tôi bước vào.
Họ không có đang chơi.
“Các cậu đã làm gì trong mấy ngày qua thế?” tôi hỏi.
“Ôi, Chúa ơi,” Johnny nói, dài mình ra trên giường Mirren. “Anh quên
mất rồi.”
“Đấy là Lễ độc lập,” Mirren nói. “Tụi mình đi ăn tối ở Clairmont Mới và
rồi mọi người dùng chiếc xuồng máy lớn đi ngắm pháo hoa của Vineyard.”
“Hôm nay tụi này đến cửa hàng donut ở đảo Nantucket,” Gat nói.
Họ chưa từng đi bất cứ đâu. Chưa bao giờ. Chưa từng gặp gỡ ai. Giờ khi
tôi bị bệnh, họ đi khắp nơi, gặp gỡ mọi người ư?
“Downyflake,” tôi bảo. “Đó là tên tiệm bánh donut.”
“Đúng thế. Họ có những chiếc bánh donut tuyệt nhất,” Johnny nói.
“Mình ghét bánh donut vòng.”
“Dĩ nhiên,” Mirren nói. “Nhưng tụi mình không có mua donut vòng, tụi
mình mua donut xoắn dài.”
“Và donut kem Boston,” Gat nói.
“Và mứt quả nữa,” Johnny kêu.
Nhưng tôi biết tiệm Downyflake chỉ làm donut vòng. Không donut xoắn
dài. Không kem Boston. Không mứt quả.
Sao họ lại nói dối chứ.
52
TÔI ĂN BỮA TỐI với Mẹ và đám nhóc ở Clairmont Mới, nhưng đêm
đó tôi lại mắc chứng đau nửa đầu. Nó còn tệ hơn cả lần trước. Tôi nằm