“Có đúng là chị nghiện thuốc không?” Taft hỏi.
“Không.”
“Chị chắc đấy chứ?”
“Nhóc gọi để hỏi coi chị có nghiện thuốc không ấy hả?” Tôi vẫn chưa trò
chuyện với Taft kể từ sau vụ tai nạn.
“Tụi em đang ở Beechwood,” nó nói. “Tụi em mới tới sáng nay.”
Thật mừng vì nó đã chuyển chủ đề. Tôi cao giọng. “Ngày mai bọn chị sẽ
tới. Có tuyệt không? Nhóc đã đi bơi chưa?”
“Chưa.”
“Thế nhóc đã chơi chiếc lốp xe đu chưa?”
“Chưa,” Taft nói. “Chị có chắc là chị không nghiện thuốc không?”
“Nhóc thậm chí đã mò đâu ra cái ý tưởng đó vậy hả?”
“Bonnie. Chị ấy nói em nên trông chừng chị.”
“Đừng có nghe Bonnie,” tôi bảo. “Nghe Mirren kìa.”
“Đó là những gì em đang nói đến đấy. Nhưng Bonnie là người duy nhất
tin em về vụ Cuddledown,” nó nói. “Và em muốn gọi cho chị. Em chỉ
không làm thế nếu chị nghiện thuốc bởi mấy kẻ nghiện ngập thì chẳng còn
biết chuyện gì đang xảy ra cả.”
“Chị không có nghiện ngập, thằng oắt con,” tôi nói. Dẫu rằng rất có thể
là tôi đang nói dối.
“Cuddledown đang bị ám,” Taft nói. “Em đến ngủ chung với chị ở
Windemere nhé?”
Tôi thích Taft. Thật đấy. Thằng nhóc có hơi chút tưng tửng và mặt đầy
tàn nhang và Mirren yêu nó hơn hai đứa sinh đôi rất nhiều. “Nó không có bị
ám. Chỉ là gió thổi qua căn nhà thôi,” tôi nói. “Gió cũng thổi qua
Windemere mà. Mấy cánh cửa sổ cứ kêu lạch cạch.”
“Nơi đó cũng bị ám luôn,” Taft nói. “Mẹ không có thèm tin em và
Liberty cũng thế.”
Ngày bé thằng nhỏ luôn là đứa nghĩ rằng có quái vật trong cái tủ áo. Sau
nó lại tin rằng dưới chân cảng tàu có quái vật biển.
“Nhờ chị Mirren giúp nhóc ấy,” tôi nói nó. “Cậu ấy sẽ kể truyện[25] hay
hát cho nhóc nghe.”