lại có người vờ ra đái, ỉa, lủi vào bụi ruối rồi chạy ù đi. Chốc lại có
người nấp ở đâu chạy vụt vào. Trong chiếc khăn vuông sụp
xuống, trên những khuôn mặt ngớ ngẩn, xanh xám, nhôm nham bộ
râu, bộ ria “chống càn” vẫn ánh lên những con mắt hau háu, chờ
đợi. Bọn lính như người máy vụt roi xuống đầu người ta, mà
chẳng biết gì hết.
Ông đồng đứng dậy. Ông đi đái. Thoắt một cái, đã vù mất.
Ông chạy về nhà, nhấc bình hương lên, đặt xuống đấy mảnh
giấy của con gái vừa đưa. Rồi ông ngồi tựa vào bệ đất, gật
gưỡng ngủ, không biết ngủ thật hay ngủ giả.
Một bọn lính khác đi tuần qua, mò vào kiếm ăn. Thấy ông lão,
thế là chúng lại móc cổ áo điệu ông lão ra đình.
Lát sau, Lực men dưới góc ao lên. Đến bên cái bệ cửa điện. Lực
nhấc bình hương, lấy mảnh giấy.
Từ sau bếp, có tiếng gọi:
- Này…
Lực thấy Hờn đứng áp dưới mái tranh. Lực chạy vào, Hờn ghé
tai, nói thầm:
- Tổ xóm Đông vừa tia chết ba thằng đấy. Nó dọa cứ phơi cả
làng ở sân đình suốt đêm, bao giờ lôi được Việt Minh lên đền
mạng thì nó mới cho về. Tổ xóm Nam muốn ngoi ra tối nay, khó
thở quá rồi. Hỏi xem đồng chí Vạn bảo thế nào.
Rồi Hờn ngoắt đi.
Lực đã thoắt trở xuống bờ ao.