giềng, búi gừng, búi nghệ tốt um. Một luống hành lẫn tỏi, củ kiệu,
lá hẹ không biết để giống hay ít hái, hành đã lên hoa, lá tỏi vàng úa.
Rồi thì mùi tàu, húng thơm, húng quế, rau ngót, dây chua me, một
cây ớt xùm xòa quả đỏ chót.
Cung cách này, hẳn bác Niệm ở một mình. Nhưng tôi im lặng
không hỏi. Tôi ngại đụng vào vết đau âm thầm của bác.
Tôi trỏ tay ra luống rau:
- Bác vẫn chơi cảnh vườn rau?
Bác Niệm nói:
- Tính tôi thế ấy mà. Đủ lệ bộ vậy mới yên. Mua được mấy con
nhộng rang, mà không rắc được cái lá chanh, cái hành hoa, ăn mất
ngon. Hôm nay ở đây ăn cơm với tôi. Anh em mình lâu lắm mới lại
cùng ngồi.
Còn tôi đã lâu mới được trở lại cái thì giờ thảnh thơi như thế.
Tưởng như phảng phất còn đương những năm kháng chiến. Ai đã ở
Việt Bắc mà không nhớ trên đường ròng rã đi công tác, tà tà chiều
qua một phố nhỏ ven bờ sông Lô quãng ngã ba lên Thác Bà, đặt
chiếc ba lô vào cái ghế trong một quán cơm mái tranh vách nứa
vắng vẻ, rồi xuống sông tắm. Tắm xong lên uống rượu ăn cơm
thịt gà luộc, canh cà chua rồi đánh một giấc. Sớm hôm sau lại ba lô
lên vai từ tờ mờ đất. Kháng chiến gian lao, mà nhẹ nhõm.
Bác Niệm cắt tiết một con gà choai. Giờ đương ở thành phố,
mà nghĩ đến giữa rừng năm ấy, mặc dầu, cả bác và tôi và hoàn
cảnh cũng đổi khác rồi.