Mặt lão tím lịm, mặt rượu bắt nắng bỗng dựng lên. Cả chiếc
đòn ống với cả lão ta lao vào ngực tôi: “Kia à! Kia à! Kia à!” Tôi hoa
mắt, quỵ xuống. Người ta chen vào cân muối, trông thấy mà cứ
dửng dưng. Xéo lên tôi, những bàn chân vẫn mải miết xô đẩy. Linh
tính hãi cái chết thế nào mà tôi bò được vào góc tường.
Tôi nằm chỏng vó thở hồng hộc. Như con lợn bị chọc tiết đến
lúc giãy chết, đương thở hắt ra. Ôi nhớ lại ngày nao đi đóng cối,
bỗng thấy thảnh thơi. Ai bảo người hấp hối gần đất xa trời
thường nhớ lại thuở bé. Tôi thấy đấy. Tôi đương nhớ khi tôi lũn
tũn biết đi. Thế rồi tôi đã chết ngay ở chỗ xó tường ấy. Trút
hết hơi rồi mà vẫn không đoán ra cái ông lão vác đòn ống đâm tôi
thằng “mậu” muối hay là lão đâm cái thằng “mậu” lợn. Có lẽ lão
ta nhầm, tôi chết oan chăng?
Tôi chết rồi, tôi đâm ra thong thả. Người chết không trẻ, cũng
không bao giờ già ốm, ngày tháng chỉ rong chơi. Và nhãng hẳn cái
sự lấy vợ.
Bao nhiêu năm tháng đã qua.
Một hôm tôi vẩn vơ về làng. Thấy người ta nói chuyện ở ngoài
chợ: “Hôm qua, vợ lão Tần ra mua con gà thẻ hương đem lên trại
cho lão. Lão Tần đã phải xơi mấy cái Tết ông Công ông Táo ở nhà
pha rồi nhỉ?”. Nghe ngóng mới hay lão Tần đi tù đã mấy năm rồi
mà không biết. Sớm tối trần gian cứ nhoáng một cái nhanh như
mới hôm qua, thảo nào cái thằng ma tôi chẳng biết gì cả.
Tôi lên trại giam trên Sơn Tây thăm Tần.
Dãy nhà một tầng lụp xụp, trại tù ở chân núi, trông ra cánh
đồng chiêm. Ngoài kia, lõm bõm, nhấp nhô trên mô đất một con