miền đất xa lạ và quanh nó toàn giống chim lạ mà trước đó nó chưa hề thấy.
Sau cùng, mệt lả vì đuối sức, nó sà xuống nghỉ trên cánh đồng xanh thân
thuộc để rồi được viên đạn của người đi săn tiếp đón.
“Một lối tiếp rước tàn nhẫn đối với một vị công chúa từ nơi xa tới viếng
thăm”, Rhayader kết luận. “Mình sẽ gọi cô ta bằng biệu hiệu “La Prrincesse
Perdue” – Nàng công chúa lạc loài. Rồi chỉ ít ngày sau nàng sẽ khá hẳn đó.
Coi nào!” Chàng thọc tay vào túi lấy ra một nắm hạt. Con ngỗng trốn tuyết
mở tròn đôi mắt ra và bắt đầu rỉa mồi.
Cô bé cất tiếng cười thích thú, rồi bỗng nín thở khi chợt nhận ra nơi chốn
cô ta đang ở, và không nói nửa lời cô bé quay mình chạy vọt ra khỏi cửa.
“Đợi chút, đợi một chút!” Rhayader la lên và chạy theo ra cửa. Chàng
đứng lại nơi ngưỡng cửa và khuôn cửa đóng khung lấy hình thù dềnh dàng
của chàng. Cô bé đã thoát ra tới bờ đê ven biển rồi, nhưng nghe tiếng gọi
thì dừng lại.
“Này em, em tên là gì nhỉ?”
“Frith”.
“Hả?” Rhayader hỏi. “Tôi chắc là Fritha mới đúng. Thế em ở đâu?”
“Với dân chài dưới bến Wickaeldroth”. Cô bé đọc tên ấy bằng giọng
Saxon thật xưa.
“Mai hay mốt em có lại thăm sức khoẻ nàng Công chúa hay không?”
Cô bé không trả lời ngay khiến Rhayader lại liên tưởng đến những con
chim hoang dưới đầm lầy khi hoảng sợ thường bất động trong khoảng một
phần mười giây trước khi vỗ cánh bay xa.
Nhưng giọng nói trong trẻo mà yếu ớt của cô bé lại vọng tới chàng: “Có
chứ!”
Và rồi cô bé bỏ chạy, mái tóc hung vàng tha thướt tung bay trước gió.
Con ngỗng trốn tuyết bình phục mau lẹ, khoảng giữa mùa đông nó đã tập
tễnh đi trong khu đất có hàng rào, hay nhập bọn với những con ngỗng
hoang chân hồng, chứ không đi với bọn lông nâu, và nó cũng biết chạy lại
tìm ăn mỗi khi Rhayader lên tiếng gọi. Và cô bé, Fritha, hay Frith, là người