ngước mắt nhìn lên vòm trời chiều vừa đúng lúc để trước hết thấy một
chấm đen nhỏ xíu, rồi thấy ảo ảnh một giấc mơ đen trắng chập chờn xuất
hiện, nó lượn quanh hải đăng một vòng, rồi, sau chót, một cánh chim thực
hạ cánh xuống đất ngay chỗ chuồng chim rồi đường bệ tiến lên đòi ăn như
thể nó chưa hề bỏ đi xa bao giờ. Đó chính là con chim trốn tuyết, không thể
nào lầm lẫn được. Nó đã đi đâu? Chắc chắn là không thể bay về tổ nó bên
Canada. Không, chắc chắn là nó đi nghỉ hè ở Greenland hay Spitzbergen
với những con ngỗng chân hồng. Nó đã nhớ và đã trở lại.
Kỳ tới xuống thôn Chelmbury mua lương thực, chàng nhờ cô trưởng
trạm bưu điện nhắn tin giùm và điều đó đã khiến cô ta ngạc nhiên không ít.
Chàng nói: “Phiền cô làm ơn nói lại với Frith, cô bé ở dưới xóm chài
Wickaeldroth, rằng Nàng công chúa đi lạc đã trở lại”.
Ba hôm sau, Frith, to lớn hơn, nhưng áo quần vẫn xốc xếch, tóc rối, bẽn
lẽn tìm đến hải đăng để thăm nàng công chúa.
Thời gian trôi qua. Trên vùng đồng lầy, bước đi của thời gian được đánh
dấu bởi sự lên xuống của nước thủy triều, nhịp đi chầm chậm của bốn mùa,
sự di chuyển của chim muông, và, riêng đối với Rhayader, sự đến và đi của
con chim trốn tuyết.
Thế giới bên ngoài xao động, bùng sôi và gầm gừ dưới áp lực của một
mãnh lực nào đấy, không bao lâu sau đã bùng nổ và đưa thế giới đến bên
bờ sự hủy diệt. Nhưng mãi tới lúc đó, Rhayader vẫn chưa chịu ảnh hưởng
của thời cuộc, và cả Frith cũng thế. Ngay cả khi cô bé đã khôn lớn, hai
người vẫn hoà hợp tự nhiên một cách lạ thường. Khi con chim trốn tuyết có
mặt tại hải đăng thì chính cô bé cũng lại lui tới để thăm viếng và học hỏi
Rhayader được nhiều điều. Hai người ra biển chơi trên chiếc thuyền buồm
chạy nhanh mà chàng điều khiển rất tài tình. Họ lưới chim hoang để tăng
thêm cố chim đang nuôi, và dựng thêm hàng rào, mở thêm sân che chở cho
chúng. Nhờ chàng, cô bé học hỏi được nhiều điều về đủ loại dã điểu, từ loài
hải âu tới giống chim ưng bay lượn trên vùng đồng lầy. Thỉnh thoảng cô bé
nấu ăn cho chàng và đôi khi cô còn tập pha sơn vẽ nữa.