Nhưng hễ con chim trốn tuyết bay về vùng cư ngụ mùa hè thì mọi
chuyện lại xảy ra như thể có một hàng rào ngăn cách giữa hai người và cô
gái không lui tới hải đăng nữa. Có một năm con chim không trở lại và
Rhayader buồn khôn tả xiết. Chàng như có cảm tưởng mọi sự đã hết trong
đời chàng. Chàng vẽ như điên suốt mùa đông và mùa hè sau đó, và không
hề gặp mặt cô bé một lần nào. Nhưng vào thu, tiếng kêu thân thuộc lại vang
trên thinh không, và cánh chim trắng khổng lồ, bây giờ đã lớn hết cỡ, từ
trời cao hạ xuống cũng bí mật như lúc nó ra đi. Mừng rỡ, Rhayader dong
thuyền xuống Chelmbury để nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm.
Lạ thay, lần này sau khi nhắn tin phải đợi tới hơn một tháng trời Frith
mới xuất hiện và Rhayader kinh ngạc đến sững người khi nhận thấy cô ta
không còn là một cô bé nữa.
Và sau cái năm con chim không tới ấy, thời hạn nó vắng mặt càng lúc
càng thu ngắn lại. Nó đã trở nên dạn dĩ đến nỗi lúc nào nó cũng quấn quít
theo Rhayader và nó dám vào cả trong phòng vẽ những lúc chàng đang làm
việc.
Mùa xuân năm 1940 bầy di điểu rời khỏi vùng đồng lầy sớm hơn thường
lệ. Thế giới đã lâm chiến. Tiếng gầm rú của máy bay phóng pháo và tiếng
nổ ì ầm của bom đạn làm chúng khiếp đảm. Hôm mồng một tháng năm,
Frith và Rhayader đứng vai kề vai bên bờ đê ven biển theo dõi những đốm
cánh cuối cùng của đán ngỗng chân hồng cánh không bị xén và những con
ngỗng hoang lông nâu cất cánh bay lên từ nơi chúng trú ẩn. Cô gái thì cao,
dáng thanh tú, thảnh thơi như gió thoảng, vẻ đẹp mê hồn. Chàng thì đen
đúa, thô kệch, cái đầu râu tóc bù xù ngước nhìn lên trời, đôi mắt đen lóng
lánh theo dõi đàn chim bay thành hàng.
“Coi kìa, Philip”, Frith gọi.
Rhayader nhìn theo hướng mắt của cô gái. Con chim trốn tuyết đã cất
cánh, đôi cánh lớn xoè ra, nhưng nó bay thấp và có lúc bay sát chỗ hai
người đứng, sát đến nỗi hai đầu cánh đen gần như quệt vào người họ, và họ
cảm thấy luồng gió mạnh của lớp cánh chim tạt vào người. Một lần, rồi hai