hồi lâu. Rồi, bước đi chậm chạp hơn, cô tiếp tục rời xa dần ngọn hải đăng
mọc chĩa lên nền trời như một ngón tay, tiếp tục rời xa dần người đàn ông
đứng ở phía dưới.
Sau đó có đến ba tuần Frith mới trở lại hải đăng. Tháng Năm đã gần hết,
và ngày hôm đó, ngày cũng dần tàn, vào lúc hoàng hôn đang nhường dần
chỗ cho màu trắng bạc của vầng trăng đã treo lơ lửng trên vòm trời phía
đông.
Cô gái tự nhủ, trong lúc tiến bước, rằng cô cần phải tới xem con chim
trốn tuyết có còn ở lại đúng như lời Rhayader đã nói hay không. Rất có thể
là rốt cuộc nó đã bay đi. Những bước đi vững chắc của cô trên mặt đê thật
là hăng hái và đôi lúc bất giác cô chợt nhận ra mình đang rảo bước đi mau.
Frith nhìn thấy ánh lửa vàng của chiếc đèn lồng ở dưới bến riêng của
Rhayader và cô xuống gặp chàng dưới đó. Chiếc thuyền buồm của chàng
nhè nhẹ đung đưa trên ngọn nước triều dâng và chàng đang chất lương thực
lên thuyền - nước ngọt, thức ăn khô, mấy chai rượu mạnh, đồ dùng trên
thuyền và một cánh buồm phòng hờ. Khi chàng quay lại vì nghe tiếng chân
cô đến gần, cô thấy vẻ mặt chàng tái nhợt, nhưng đôi mắt đen lúc bình
thường vốn rất ư dịu dàng, đang sáng ngời lên vì cảm kích, và chàng thở
hào hển vì mệt nhọc.
Frith bỗng nhiên cảm thấy lo sợ. Con chim trốn tuyết bị lãng quên rồi.
“Philip! Bộ anh dọn đi nơi khác à?”
Rhayader ngừng tay để chào đón cô gái, và trên gương mặt chàng thoáng
hiện một vẻ gì khác thường - một sắc diện hớn hở mà trước đó cô chưa
từng thấy bao giờ.
“Frith! Tôi mừng vì em đến đúng lúc. Vâng, tôi phải đi. Một chuyến đi
ngắn ngủi. Rồi tôi sẽ trở về”. Giọng nói của chàng thường nhật dịu dàng,
bữa nay trở nên khàn khàn vì chàng đã cố gắng rõ rệt để chế ngự cơn xúc
động trong nội tâm.
Frith hỏi: “Anh phải đi dâu chứ?”
Rhayader vồn vã kể. Chàng phải đi Dunkerque
.