Cách chừng một trăm dặm bên kia bờ biển phía Bắc, một đạo binh Anh
mắc bẫy ở đó, trên bãi cát, đang chờ bị tiêu diệt bởi bàn tay quân Đức đang
tiến tới. Hải cảng ngùn ngụt bốc cháy, tình cảnh thật tuyệt vọng. Chàng
nghe được tin ấy khi chàng xuống dưới làng mua lương thực. Nhiều người
đã đáp lại lời kêu gọi của chính phủ rời bến Chelmbury với đủ thứ tàu: tàu
kéo hàng, tàu đánh cá hay xuồng máy, miễn là máy còn chạy nổi đều được
kéo ra khỏi cảng, vượt eo biển để lôi binh sĩ ra khỏi bãi biển, chở họ đến
những tàu vận tải hay những chiến hạm lớn không vào được chỗ đó. Dân
chúng cố gắng cứu sống càng nhiều càng hay số binh sĩ Anh thoát khỏi làn
mưa đạn của quân Đức.
Frith lắng nghe và cảm thấy lòng mình buồn như muốn chết. Chàng cho
biết là chàng sẽ vượt qua eo biển trên chiếc thuyền buồm nhỏ của chàng.
Nó có thể chở được sáu người mỗi chuyến, nếu cần thì bảy người. Chàng
có thể chở nhiều chuyến từ bãi biển ra tàu vận tải đậu ngoài khơi.
Cô gái còn trẻ, chất phác, vụng dại. Em chưa hiểu gì về chiến tranh, hoặc
về những gì đang xảy ra trên đất Pháp, hoặc về ý nghĩa sự mắc bẫy của
đoàn quân Anh, nhưng do linh tính cô gái cũng biết ở nơi xa xôi đó thật
nguy hiểm.
“Philip! Anh đi thật sao? Anh sẽ không về được đâu. Mà sao anh lại phải
đi?”
Cơn hăng say đang bồng bột trong tâm hồn chàng tưởng chừng tan biến
trước đợt đầu tiên của những câu nói và chàng cố giải thích bằng những lời
lẽ mà cô gái có thể hiểu được.
Chàng nói: “Binh sĩ bị lùa ra bãi biển giống như những con chim bị săn
đuổi, Frith ạ, như những con chim bị săn và bị thương mà chúng mình vẫn
thường bắt gặp và đưa về nơi trú ẩn. Bay lượn trên họ là một bầy chim
bằng thép, những con diều hâu, chim ưng, kên kên, và họ chẳng biết nấp
vào đâu để tránh những con chim sắt săn mồi ấy. Họ bị thua, bị bão táp dồn
đuổi, bị đe doạ như nàng công chúa đi lạc mà em đã bắt gặp trong đầm lầy
và mang đến cho tôi nhiều năm trước, và chúng ta đã cùng lo chạy chữa.
Cũng như bầy hoang điểu của chúng ta, những người lính đó cần được giúp