ấy nhô lên những cây thập giá bằng đá thời xưa và còn xưa hơn nữa là
những phiến đá cao dựng lên từ thời Thượng cổ.
Những chiếc thuyền đánh cá rẽ sóng vào bờ; những đứa trẻ nô đùa trên
cát; người đưa thư cỡi xe đạp đi qua; những người đàn bà dừng lại ngồi
mách la mách lẻo ngoài cửa tiệm bán bánh mì, và có một lúc nàng như ngửi
thấy mùi bánh mì mới ra lò và những ổ bánh tròn tròn giòn tan. Nàng thấy
mình đang ở trong nhà thờ, nghe thấy tiếng sột soạt của những chiếc áo
choàng hồ cứng và cả tiếng đàn phong cầm êm ái. Có một lúc những lời
thánh ca dịu dàng thoảng qua trí não nàng và nàng nhìn thấy đôi tay héo
mòn vì lam lũ của người mẹ hiền đang vuốt lại chiếc áo cho nàng mặc để
rước lễ lần đầu. Nàng hồi tưởng lại những người bạn xưa. Đã có lần nàng
cóm con thỏ xám, một con rùa, một con mèo vàng và một con vịt lúc nào
cũng chỉ đứng bằng có một chân. Nàng nhớ lại đôi mắt của những con vật
đi hoang đôi khi núp đàng sau bụi rậm âu yếm nhìn ra.
Nhìn lại khu vườn xuân sắc đầy hương nhụy ấy như nhìn qua một khung
cửa trên bức tường, nàng không biết cuộc đời có còn đáng sống hay không.
Vì nàng còn trẻ và người ta vẫn có thể xây dựng trên đống tro tàn của thất
bại. Khoảng đêm đen dày đặc, lạnh buốt, thù hận ồn ào chỉ gợi lên những ý
nghĩ tuyệt vọng nơi đầu óc nàng. Nàng cắm đầu lủi thủi bước không nhìn
thấy gì nữa.
Từ trong bóng tối có một vật hay một người nào gọi ra: “Này cô kìa, cô
nhỏ xách va-ly kia, cô đi đâu mà gấp thế?”
Mouche dừng lại giật bắn mình lên, bối rối, vì tiếng nói the thé ấy nhằm
vào nàng, nhưng nàng không biết tiếng ấy xuất phát từ đâu. Câu hỏi trân
tráo này khiến nàng tức giận, vì nó có tác dụng lôi nàng về cái thế giới mà
thực sự nàng đã bỏ đi rồi.
Những lời nói tiếp theo trong bóng tối vọng ra càng làm nàng hoảng sợ
hơn.
“Dưới đáy sông lạnh lắm, cô bé ơi, loài lươn, loài tôm chúng rỉa thịt cô
đó.”