chấp những nỗ lực của ngài. Hay các ngài hy vọng rằng tuy thế họ cũng
sẽ có lúc tỉnh dậy và lên tiếng nói như con lừa của Balaam?
... Đúng, họ sẽ tỉnh dậy, nhưng không phải những giọng nói ngọt
ngào của các nhà thơ của các ngài sẽ đánh thức họ, cũng không phải là
khói hương trầm; chỉ có tiếng còi nhà máy mới có thể làm cho họ thức
tỉnh mà thôi. Họ sẽ tỉnh dậy và sẽ lên tiếng, và giọng nói của họ nghe
chẳng êm tai chút nào đâu. Hay các ngài hy vọng vào những khu rừng
hoang và những đầm lầy của các ngài? Ở đấy còn có thể ngủ thêm nửa
thế kỷ nữa, tôi cũng tin như vậy. Nhưng xin đừng gọi đó là sự nghiệp
cứu thế. Đó không phải là cái sắp đến, mà chính là cái sắp mất đi. Ở
đây, Pêterburg, trong gian phòng lộng lẫy này, người ta đã bịa ra con
người mu-gích Nga. Người ta đã viết về hắn hàng trăm pho sách, lại cả
mấy vở ca kịch nữa. Tôi e rằng trò chơi này sẽ kết thúc bằng một biển
máu...
Nhưng đến đây chủ tọa cắt lời diễn giả. Akunđin mỉm một nụ cười
nhợt nhạt, rút từ túi áo vét tông ra một chiếc khăn tay lớn và với một cử
chỉ quen thuộc đưa khăn lên lau cái mặt lẫn cái đầu trọc lốc. Ở cuối
phòng có những tiếng la ó:
- Cứ để ông ấy nói.
- Có cái lối đâu bịt mồm người ta lại như thế!
- Thật là láo xược!
- Ở đằng sau kia, im đi!
- Ông im đi thì có! Akunđin nói tiếp:
- Người mu-gích Nga được đem ra làm một thí điểm ứng dụng các tư
tưởng. Thôi cũng được. Nhưng nếu những tư tưởng này không có liên
hệ hữu cơ với những khát vọng lâu đời của họ, với cái quan niệm
nguyên thủy của họ về công bằng, một quan niệm chung cho toàn nhân
loại, thì đem tư tưởng đến cho họ cũng chẳng khác nào gieo mầm
xuống một tảng đá. Và chừng nào người ta chưa chịu thấy rằng người