cho tôi nửa mẹt bánh đúc. Cả đời chưa bao giờ tôi được ăn uống ngon lành
như thế.
Tôi gánh hàng đi theo cô Phượng về nhà. Hàng toàn vôi với sơn, tôi
khong biết mua để làm gì. Nhà cô Phượng ở vùng đất bãi, giống hệt quê tôi,
chỉ khác ở đây có nhà thờ đạo Thiên chúa. Cô Phượng ở với bố, một người
cô mù không biết tên thật là gì, chỉ thấy mọi người gọi bà là Maria. Cô
Phượng có hai em gái, một cô tên Thủy, một cô tên là Liên. Khi đưa tôi về,
cô Phượng nói với mọi người: "Tôi nhặt được ông mãnh này ở ngã ba
đường. Có vẻ là dân lao động chứ không phải lưu manh giang hồ". Bố cô
Phượng hỏi: "Này anh kia, tên là gì ? Có vướng trộm cắp gì không ?". Tôi
bảo: "Tôi là Chương. Tôi không trộm vặt". Bố cô Phượng cười: "Tôi biết
rồi, tướng anh là tướng người trộm cướp lớn chứ không trộm cắp vặt. Cái
dái tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường.
Chán đời hay sao mà cánh bèo trôi dạt đến đây thế này ?". Tôi bảo: "Phận
tôi nó thế". Bà Maria lấy tay sờ mặt tôi, thét lên: "Giêsuma ! Chúa ơi !
Người đâu mà chẳng thấy thịt, chỉ thấy toàn đất là đất thế này ?".
Tôi ở nhà cô Phượng. Người ta hứa nuôi tôi một tháng. Bố cô Phượng là
trùm xứ đạo. Công việc của tôi là sơn, quét vôi lại toàn bộ nhà thờ. Công
việc khó khăn nhất là phải tô sơn lại bức tượng chúa đứng trên nóc gác
chuông, bức tượng cao hai mét, tạc hình Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ
giang hai tay ra, chân đứng trên quả cầu tròn. Ðây là điểm cao nhất của nóc
gác chuông, hoàn toàn không có mặt bằng để dựng dàn giáo. Muốn tô sơn
lại bức tượng, tôi chỉ còn có cách buộc thừng vào người rồi chằng thừng
vào thân tượng. Hợp đồng công việc của tôi không có bảo hiểm. Bố cô
Phượng bảo: "Xứ đạo chúng tôi nuôi anh ba bữa, anh chết thì chúng tôi
chôn. Làm xong anh được hai trăm ngàn đồng". Tôi nhớ đến khoản tiến
công đóng gạch cho bà cụ người Sơn Tây mà cười ra nước mắt. Cô Phượng
bảo tôi: "Ahh nghĩ lại đi. Bức tượng làm cách đây hai trăm năm rồi, vôi vữa
không khéo đã mục, leo lên đấy nhỡ chết thì sao ?" Tôi bảo: "Chúa giúp tôi.
Nếu không thì chẳng có Chúa".