Hoặc mùa nước, chỉ cần một trận lụt là vứt đi hàng mẫu là thường. Tôi
bỗng thấy buồn, Mặc kệ dòng nước đẩy dạt vào bờ. Hóa ra chẳng phải mất
nhiều, chỉ vài ba cây. Tôi ngồi xuống bẻ một dóng mía ăn. Mía nhạt thếch.
Tôi vứt dóng mía rồi trở về chòi, nằm thao thức đến sáng. tôi cố nhớ lại
khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt
quen, tựa như bà Hai Khởi vừa tròn vừa to, Mũi trông như vỏ cam sần, hoặc
như mặt chị Vĩnh, dài, mà tai tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm
luộc, Mặt anh Dư, xương hàm bạnh ra như hàm ngựa. chẳng có khuôn mặt
nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không
đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ. Tôi tìm một mảnh gương vỡ
soi thử mặt mình. Mảnh gương bé quá, không rõ hết mặt. Chỉ thấy trong
gương một đôi mắt đờ dại nhìn mình như mắt tượng gỗ trên chùa.
Cuối năm ấy, tôi rút khỏi chân bảo vệ, chuyển sang đội thủy lợi. "Nhất
thổ, nhì mộc", công việc sắn mai bốc đất vất vả nhưng tôi sức trẻ nên cứ
phăng phăng. Bẵng đi ba năm, hơn nghìn ngày. Kể đất tôi vác có khi đắp
được một trái núi con. Thế nhưng quê tôi nào đâu có núi non gì, chỉ bằng
phẳng những cánh đồng cằn, những con mương chạy ngang dọc khắp chốn
cùng nơi mà đất vẫn khô nẻ.
Năm 1975, đấy là một năm đáng để quan sát ghi nhớ.Quê tôi mở hội rất
to. Thi bơi chải trên sông, thi vật, đội văn công trên tỉnh về biểu diễn. Các
đô vật ở Ðoài Hạ thắng đậm các đô vật khác trong vùng. Dân bãi Nổi táo
tợn là thế, cử ra bốn đô vật đều bị loại từ vòng đầu. Hạ được bãi Nổi, Ðoài
Hạ được thể. Ðô Thi thúc trống hỏi to: "không có ai vào xới thì tôi lấy giải
về Ðoài Hạ đây này". Trai làng tôi tức lắm, xui tôi vào xới. Thú thực, tôi
không thạo vật, nhưng tôi có sức. Tay tôi đã bám vào đâu thì thật như kìm,
nội công ngoại lực gì tôi không biết, nhưng tôi đã bóp, gạch cũng nát vụn.
Tôi cởi quần áo, Mặc độc cái quần đùi nâu. Mọi người cười ồ. Người ta
giải thích dài dòng rắc rối, đại để tôi muốn giật giải phải vật với những năm
người. Trai làng tôi không chịu cãi nhau om lên, cuối cùng đi đến thỏa