Nhưng ngoài hai thứ tiếng đó ra, anh ta còn biết một thứ tiếng mà người
da đỏ đã dùng từ thời thượng cổ đến nay.
Đó là thứ ngôn ngữ đơn giản nhất trên thế giới. Muốn học thứ tiếng đó,
chẳng cần học chia động từ hay mẹo luật gì cả. Việc đọc cho đúng giọng
cũng không thành vấn đề, vì dùng thứ tiếng này có phải đọc thành tiếng đâu.
Tiếng nói đặc biệt của người da đỏ này chính là ngôn ngữ của các điệu
bộ.
Dưới đây là một số danh từ của thứ ngôn ngữ đặc biệt này:
TRANG TỪ ĐIỂN NHỮNG ĐIỆU BỘ HÌNH ẢNH
Cái cung: một tay ra hiệu cầm cái cung vô hình, tay kia ra hiệu cầm dây
cung cũng tưởng tượng nốt.
Túp lều: giơ hai ngón tay chắp chéo, hình dung một cái mái nhọn.
Người da trắng: đưa bàn tay chạy vòng quanh trán (để hình dung vành
mũ).
Chó sói: bàn tay giơ hai ngón ra (thay cho hai tai nhọn).
Thỏ: cũng điệu bộ trên, kèm theo động tác vạch một đường cong (hai tai
và lưng tròn của thỏ).
Cá: bàn tay để đứng theo chiều dọc quẫy đi quẫy lại (như đuôi cá lúc bơi).
Ếch: những ngón tay chụm lại và nhảy nhảy trên người.
Mây đen: hai nắm tay để trên đầu, mô tả mây đang treo lơ lửng trên đầu.
Tuyết: hai nắm tay giơ cao trên đầu, rồi từ từ mở ra và hạ xuống theo
đường ngoằn ngoèo như những bông tuyết rơi.
Mưa: hai nắm tay giơ cao rồi mở ra và hạ xuống nhanh.
Ngôi sao: hai ngón tay, khi thì chụm lại, khi thì xòe ra lơ lửng ở trên đầu
biểu hiện ngôi sao đang lấp lánh.