Vì vậy “làm việc” và “bổ, chặt” ở thời đó là đồng nghĩa. Đáng chú ý là
cho đến bây giờ, trong ngôn ngữ ở nhiều nước, những từ như “bàn tay”
“chặt”, “công cụ”, “vũ khí” là cùng một gốc.
NGÔN NGỮ BẰNG ĐIỆU BỘ NGÀY NAY
Một vài mẩu của ngôn ngữ bằng điệu bộ hãy còn tồn tại đến ngày nay.
Thí dụ: đáng nhẽ nói “ừ”, thì nhiều lúc ta chỉ gật đầu.
Khi muốn chỉ cái gì, hay chỉ chiều hướng của một động tác, ta hướng
theo phía đó bằng một ngón tay, được gọi riêng là “ngón tay trỏ”.
Muốn chào ai, ta cúi đầu. Muốn nói “không”, ta lắc đầu. Ta nhún vai và
mở rộng hai cánh tay để tỏ vẻ bất lực. Ta cau mày, cắn môi, giơ ngón tay đe
dọa, đập nắm tay lên bàn, giẫm chân xuống sàn. Ta hay tay lên trời tỏ vẻ thất
vọng, đặt tay lên trái tim, ôm hôn nhau, bắt tay nhau, gửi tặng nhau những cái
hôn trên đầu ngón tay.