kế hoạch của mình để phản ánh tình trạng khan hiếm nguồn nhiên liệu, sự
thay đổi công nghệ và sự thay đổi sở thích của người tiêu dùng. Một số nhà
kinh tế, như Léon Walras chẳng hạn, đã sử dụng hệ thống các phương trình
đồng thời để thể hiện các mối quan hệ chung giữa các mức giá cả và khối
lượng hàng hoá được bán hay mua nhằm mô tả sự vận hành của nền kinh
tế. Chúng ta cần lưu ý, trong ví dụ này, hệ thống phương trình đồng thời
của Walras chỉ cho chúng ta biết về mô thức các mối quan hệ kinh tế nhất
định trong xã hội, nhưng nó lại không cho chúng ta biết gì về một tình trạng
cụ thể của nền kinh tế bởi chúng ta không thể nào biết được các hệ số gắn
với các biến số của các phương trình ở một thời điểm cụ thể nào đó
. Việc
chúng ta chỉ biết được các mối quan hệ bền vững giữa các phần tử cấu
thành hiện tượng phức nhưng lại không biết được các hệ số xác lập các mối
quan hệ cụ thể đã dẫn Hayek đi đến kết luận rằng trong lĩnh vực nghiên cứu
các hiện tuợng phức, các dự báo chính xác là không thể; điều chúng ta có
thể làm là “dự báo mô thức” cũng như “giải thích nguyên lí vận hành” của
hiện tượng. Khi các nhà kinh tế nói rằng, giả sử các yếu tố khác giữ nguyên
(ceteris paribus assumption), mức tiêu thụ một sản phẩm nào đó sẽ giảm
nếu chính phủ đánh thuế tiêu thụ hàng hoá đó, thì đó là một dự báo mô thức
vì họ không thể dự đoán được tiến trình sắp tới của các mức giá cụ thể
trong thực tế tiếp theo sẽ như thế nào do có nhiều yếu tố tác động mà mô
hình dự báo của họ không kiểm soát được.
* * *
Hayek viết cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học trong những
năm khốc liệt nhất của Thế chiến II với mong muốn làm sáng tỏ một sự thật
hiển nhiên: sự hữu hạn bẩm sinh của tâm trí con người. Bất cứ khi nào
chúng ta không chịu chấp nhận sự thật ấy, không coi đó là xuất phát điểm
để định hướng tư duy và hành động của mình, chúng ta ắt sẽ phạm phải sai
lầm cả trên bình diện học thuật lẫn trên bình diện thực tiễn.