độ, kì vọng, ước muốn v.v.) gắn với các hành động cá nhân mà mọi người
đều biết đến.
Trong thập kỉ 1960 và 1970, F. A. Hayek đã tổng hợp và phát triển các
luận điểm của mình về phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội lên
một tầm cao mới. Dưới ảnh hưởng của Karl Popper, Hayek thừa nhận rằng
sự khác biệt giữa nghiên cứu lí thuyết trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội là không quá nhiều. Cả hai đều phải dựa vào phương pháp
diễn dịch thay vì quy nạp. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc tính chủ quan của
các hiện tượng xã hội và đặc tính phân hữu tri thức trong xã hội, Hayek cho
rằng hiện tượng xã hội là hiện tượng phức (complex phenomena) theo
nghĩa để mô tả một hiện tượng xã hội cụ thể chúng ta phải cần một số
lượng vô hạn các biến số, khác với các hiện tượng tự nhiên, nơi ta có thể sử
dụng một số lượng hữu hạn các biến số để mô tả
. Đối với các hiện tượng
phức, chúng ta không thể áp dụng các thí nghiệm trong những điều kiện lí
tưởng để kiểm nghiệm các lí thuyết khác nhau, qua đó tìm ra được các lí
thuyết tốt hơn. Quy trình nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội phải tiến hành
theo cách khác. Nhờ có cấu trúc tâm trí giống nhau, những nhà nghiên cứu
xã hội khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó có thể tự chiêm nghiệm để
tìm ra các phần tử tâm trí đơn giản có liên quan mà mọi người đều quen
thuộc, sau đó cẩn thận áp dụng phương pháp compozit để tìm ra các
nguyên lí chi phối sự hình thành hiện tượng quan tâm từ những loại phần tử
tâm trí đơn giản đó. Các nhà nghiên cứu xã hội phải chấp nhận việc hầu
như không thể dùng các biện pháp thực nghiệm để kiểm sai (falsify) một lí
thuyết nào đó về các hiện tượng phức
* * *
Việc phát hiện ra bản chất của hiện tượng xã hội là hiện tượng phức,
nhưng lại là hiện tượng được cấu tạo từ những phần tử tâm trí mà chúng ta
có thể hiểu được vì chúng ta đều có một cấu trúc tâm trí chung, đã đưa