thần cho họ về những gì sẽ đến, để khi gặp phải buồn phiền thất vọng cũng
không đến nỗi quá khó khăn.
Mùa hè bảy năm trước trời ấm một cách kỳ lạ, và ngay cả ở thành phố
chúng tôi, cũng có những lúc cứ tưởng như mình đã xuống đến biển
Adriatic. Chúng tôi chơi ngoài trời suốt hơn bốn tháng - dưới vòm quán cà
phê, nhìn ra quảng trường và toàn bộ khu bàn, và tôi phải nói với anh làm
việc như thế rất là nóng, kể cả có hai hay ba cây quạt điện ầm ù xung
quanh. Nhưng đấy là một mùa khấm khá, khách du lịch đến đông, một
lượng lớn từ Đức hay Áo tới, và cả người Ý trốn nóng từ bờ biển lên. Và
đấy là mùa hè đầu tiên chúng tôi để ý thấy những người Nga. Ngày nay họ
chẳng còn đập vào mắt, du khách Nga cũng chẳng khác gì mọi người.
Nhưng thời đó, họ vẫn còn là của hiếm đủ để anh phải ngoái nhìn. Họ ăn
bận kỳ cục và đi đứng như trẻ nhỏ mới nhập trường. Lần đầu thấy Tibor,
chúng tôi đang nghỉ giữa hai suất diễn, giải lao ở cái bàn to mà quán luôn
giữ riêng cho chúng tôi. Cậu ta ngồi gần, chốc chốc lại đứng dậy dịch chỗ
bao đàn cello để nắng khỏi chiếu vào.
“Nhìn thằng nhóc kìa,” Giancarlo nói. “Một sinh viên trường nhạc người
Nga không có đường kiếm sống. Và hắn sẽ làm gì? Quyết định vung tiền
nốc cà phê giữa quảng trường trung tâm.”
“Hắn là thằng ngốc, hẳn rồi,” Ernesto nói. “Nhưng là một thằng ngốc
lãng mạn. Vui lòng mà chết đói, miễn là được ngồi ở quảng trường đây cả
chiều.”
Cậu ta gầy gò với mái tóc màu hạt dẻ và cặp kính phản thời trang - gọng
kính to đùng khiến cậu trông như một con gấu trúc. Ngày nào cậu cũng đến,
và tôi không nhớ chính xác chuyện bắt đầu ra sao nhưng đến một lúc chúng
tôi đã ngồi trò chuyện với cậu giữa các suất diễn. Và đôi khi nếu cậu đến
trong giờ diễn chiều thì khi đã xong chúng tôi gọi cậu lại, có khi đãi cậu
rượu vang và crostino.