câu gì hẳn hoi về bà. Thay vào đó, cậu nghiền ngẫm những chi tiết nhỏ bà
để lộ - rằng bà sống ở Portland bang Oregon, rằng bà đã chuyển đến đó từ
Boston ba năm trước, rằng bà ghét Paris “vì ở đó chỉ toàn những liên tưởng
đáng buồn” - nhưng chùn lại không dám hỏi sâu hơn.
Bây giờ bà đã bật cười dễ hơn nhiều so với những ngày đầu họ làm bạn
với nhau, và bắt đầu có thói quen, khi hai người bước ra khỏi khách sạn mà
băng qua quảng trường, đưa tay khoác lấy tay cậu. Đấy là lúc chúng tôi lần
đầu phát hiện thấy cặp đôi lạ lùng này, cậu thì trông trẻ hơn nhiều tuổi thực,
bà trông có lúc như bà mẹ, lúc khác “như một cô đào lẳng lơ”, như Ernesto
diễn tả. Trong những ngày trước khi bắt đầu nói chuyện với Tibor, chúng tôi
mất khá nhiều thời gian tán gẫu về họ, như người trong một ban nhạc
thường làm. Khi họ đi qua tay trong tay, chúng tôi sẽ nhìn nhau mà bảo:
“Bồ nghĩ thế nào? Họ đã có chuyện ấy rồi, hử?” Nhưng sau khi nhấm nháp
cái phỏng đoán này, chúng tôi sẽ nhún vai thừa nhận rằng không có lý: đơn
giản là họ không có phong thái của tình nhân. Và đến khi chúng tôi quen
Tibor, và cậu kể với chúng tôi về những buổi chiều trong phòng suite của
bà, không người nào còn nghĩ đến chuyện chọc ghẹo cậu hay đưa ra những
ám chỉ nhảm nhí nữa.
Rồi một buổi chiều khi họ đang ngồi trên quảng trường với cà phê bánh
ngọt, bà bắt đầu nói về một người muốn lấy bà. Tên ông ta là Peter
Henderson, ông ta là chủ một doanh nghiệp phát đạt ở Oregon bán đồ nghề
chơi gôn. Ông ta thông minh, tốt bụng, được mọi người quen biết nể trọng.
Ông ta hơn Eloise sáu tuổi, nhưng như thế chưa phải là già. Có hai đứa con
nhỏ với người vợ trước, nhưng mọi thứ đã được thu xếp êm thấm.
“Thế nên giờ anh hiểu tôi đang làm gì ở đây,” bà nói với tiếng cười căng
thẳng cậu chưa từng nghe trước đó. “Tôi đang trốn. Peter không biết tôi ở
đâu. Tôi nghĩ là tôi khá ác. Thứ Ba vừa rồi tôi gọi cho ông ấy, bảo mình
đang ở Ý, nhưng không nói là thành phố nào. Ông ấy giận điên lên và tôi
nghĩ ông ấy hoàn toàn có quyền đó.”