và với vẻ tự hào hờ hững bắt đầu bật tanh tách các loại công tắc, khiến đủ
thứ đèn giấu kín đáo bật rồi lại tắt: đằng sau tấm đầu giường, trên nóc tủ áo
vân vân. Một công tắc khác đánh thức một tiếng rì rì, thế là mành mành từ
từ hạ xuống trước hai cửa sổ.
“Nghe này, Charlie, tôi cần mành làm gì mới được chứ?” lúc đó tôi hỏi.
“Tôi muốn nhìn ra ngoài khi tỉnh dậy. Chỉ cần rèm là được rồi.”
“Mành Thụy Sĩ đấy,” cậu ta đáp, cứ như thế là giải thích xong.
Nhưng lần này Charlie dẫn tôi lên cầu thang vừa đi vừa lúng búng, và
khi đến phòng tôi, tôi nhận ra là cậu ta đang xin lỗi. Rồi tôi nhìn thấy căn
phòng ở một tình trạng chưa bao giờ gặp. Giường để trần, tấm nệm lốm
đốm và lệch xẹo. Trên sàn để từng chồng tạp chí và sách cũ, hàng búi quần
áo cũ, một cây gậy hockey và thùng loa đổ nghiêng. Tôi dừng lại trên bậc
cửa trố mắt nhìn trong lúc Charlie dọn chỗ cho tôi để túi.
“Trông cậu cứ như sắp đòi gặp người quản lý nhà,” cậu ta chua chát nói.
“Không, không. Chỉ là trông nó không giống như mọi khi.”
“Cái chuồng lợn, mình biết, chuồng lợn.” Cậu ta ngồi xuống đệm thở
dài. “Tôi cứ nghĩ mấy con nhỏ lau dọn đã phải xong phòng này rồi. Giờ thì
rõ ràng là chưa. Chúa biết tại sao.”
Trông cậu ta rất phiền muộn, nhưng thình lình cậu ta lại bật dậy.
“Thế này, chúng ta ra ngoài ăn trưa. Tôi sẽ để giấy lại cho Emily. Chúng
ta có thể ăn một bữa trưa bình thản từ tốn và đến lúc ta về thì phồng cậu -
thì cả căn hộ - sẽ xong.”
“Nhưng chúng ta không thể bắt Emily dọn dẹp hết được.”