lang còn thầy Travis đi từ đầu kia lại, vừa đi vừa nói chuyện với bà ta, và
khi tôi đi qua bà ta chộp lấy tôi mà phun ra thứ của khỉ gì đó về chuyện nộp
bài muộn hay gì đây. Vấn đề là bà ta làm thế cốt để thầy Travis biết tôi là
một đứa “cá biệt”, rằng nếu thầy có trót nghĩ tôi thuộc vào số những học trò
đáng để thầy coi trọng thì thầy nhầm to rồi. Có thể vì bà ta đã già, tôi cũng
không biết, nhưng những thầy cô khác hình như không bao giờ nhìn thấu
được lòng dạ bà ta. Ai cũng coi lời bà ta như sấm.
Khi Mụ Fraser đi vào hôm ấy, thấy rõ là bà ta nhận ra tôi, nhưng bà ta
không cười hay gọi tên tôi gì cả. Bà ta mua một tách trà và một gói bánh
quy kem, rồi mang ra ngoài sân. Tôi nghĩ thế là xong. Nhưng rồi một lát
sau, bà ta lại quay vào, đặt cái tách đã cạn và đĩa xuống quầy rồi nói: “Vì
anh không định dọn bàn nên tôi đã tự mang vào đây.” Bà ta ném cho tôi cái
nhìn độ một hay hai giây lâu hơn bình thường – cái nhìn “giá mà tao bợp
được tai mày” ngày xưa – rồi bỏ đi.
Nỗi căm giận với mụ chằn tinh bùng lại trong tôi, và đến khi Maggie
xuống quầy mấy phút sau thì tôi đã hoàn toàn bốc hỏa. Chị nhận thấy ngay,
liền hỏi có chuyện gì. Ngoài sân có mấy người khách, nhưng trong nhà
không có ai, thế nên tôi bắt đầu quát tháo, rủa Mụ Fraser bằng mọi thứ tên
bẩn thỉu xứng với mụ. Maggie dỗ tôi bình tĩnh lại, rồi nói:
“Mà đằng nào bà ấy cũng chẳng dạy dỗ ai nữa đâu. Chỉ còn là một bà
già tội nghiệp có ông chồng đã bỏ nhà đi.”
“Chẳng có gì lạ.”
“Nhưng cũng phải thấy thương hại bà ta. Đúng lúc bà ta nghĩ mình có
thể về hưu yên ổn thì ông ta bỏ đi với một người trẻ hơn. Và bây giờ bà ta
phải trông coi cái nhà trọ một mình và người ta bảo cái chỗ ấy chả còn ra
thể thống gì nữa cả.”