Tin ấy làm tôi vui không kể xiết. Tôi cũng nhanh chóng quên ngay Mụ
Fraser, vì một nhóm khách đi vào và tôi phải làm thêm mấy đĩa xa lát cá
ngừ. Nhưng vài ngày sau nói chuyện với Geoff trong bếp, tôi moi được
thêm vài thông tin: rằng ông chồng từ bốn chục năm nay đã đi mất với cô
thư ký, và rằng cái nhà khách của họ đã có một khởi đầu thuận lợi, nhưng
bây giờ chỉ nghe kháo chuyện khách đòi lại tiền phòng, hay trả phòng chỉ
vài giờ sau khi đến. Tôi đã một lần nhìn thấy tận mắt nhà khách ấy khi giúp
Maggie chở về một lượng hàng mua sỉ và chạy xe ngang qua. Nhà khách
của Mụ Fraser ở ngay trên Tuyến đường Elgar[1], một căn nhà đá hoa
cương khá bề thế với một tấm bảng ngoại cỡ viết “Trú quán Malvern”.
[1] Tuyến đường bốn mươi dặm nối những điểm tham quan gắn với nhà
soạn nhạc Edward Elgar.
Nhưng tôi không muốn nói về Mụ Fraser nhiều quá. Không phải tôi bị
mụ hay cái nhà khách đó ám ảnh. Tôi chỉ kể lại những điều này ở đây là bởi
cái chuyện sẽ xảy ra về sau, khi đến lượt Tilo và Sonja.
Geoff hôm ấy đã đi vào khu trung tâm, nên chỉ có tôi và Maggie cầm cự.
Giờ ăn trưa cao điểm đã qua, nhưng tới lúc “đôi Đức” vào thì chúng tôi vẫn
còn khá rộn. Tôi đã phân loại họ trong đầu là “đôi Đức” ngay khi nghe
giọng. Không phải tôi phân biệt chủng tộc hay gì. Nếu phải đứng quầy và
ghi nhớ xem ai không thích củ cải đỏ, ai muốn thêm bánh mì, ai gọi gì tính
vào hóa đơn nào, anh không còn cách nào khác là phải biến các khách ăn
thành nhân vật, gắn cho họ cái tên, lấy ra những đặc điểm ngoại hình. Mặt
Lừa gọi bữa thợ cày hai cà phê. Mì dài cá ngừ mayonnaise cho Winston
Churchill và phu nhân. Tôi xoay xở bằng cách ấy. Thế nên Tilo và Sonja trở
thành “đôi Đức”.
Chiều hôm đó rất nóng, nhưng hầu hết khách hàng – vì là người Anh –
vẫn muốn ngồi ngoài sân, một số thậm chí còn tránh cái dù để mình có thể
đỏ rực lên trong nắng. Nhưng đôi Đức quyết định ngồi trong nhà hưởng
bóng râm. Họ đều mặc quần dài thụng màu lông lạc đà, áo thun, đi giày thể