Chương 20
Ngoài tất cả những bài viết này, tôi còn ghi nhật kí từ khi sống tại Georgia
Pines - không có gì lớn lao, chỉ là một đôi đoạn văn mỗi ngày, phần lớn về
thời tiết - và tối hôm qua tôi đã xem lại. Tôi muốn biết thời gian đã được
bao lâu, kể từ lúc hai đứa cháu ngoại Christopher và Danielle ép buộc tôi, ít
hay nhiều, vào Georgia Pines.
Vì quyền lợi của chính ông, ông ngoại ạ. - Chúng bảo thế. Tất nhiên là
chúng nói thế. Chẳng phải đấy là câu người ta hay nói khi tìm ra cách loại
bỏ một vấn đề biết đi và biết nói ư?
Đã hơn hai năm một chút. Điều kì dị là tôi không biết cảm giác như hai
năm, hoặc dài hơn, hay ngắn hơn. Ý thức về thời gian của tôi có vẻ đang tan
chảy, như hình nộm người tuyết của trẻ em vào giai đoạn băng tan trong
tháng giêng. Như thể thời gian mãi mãi như trước - giờ Eastern Standard
Time, giờ Daylight Saving Time, giờ Working - Man Time - không còn hiện
hữu nữa. Ở đây chỉ có giờ của Georgia Pines, tức là giờ của Lão Ông, giờ
của Lão Bà, và giờ Đái Dầm. Phần còn lại... đã trôi đi.
Đây là một nơi khốn kiếp, đầy nguy hiểm. Thoạt đầu bạn không nhận ra
điều đó, thoạt đầu bạn tưởng nó chỉ là một nơi chốn buồn tẻ, chỉ nguy hiểm
bằng nhà trẻ vào giờ ngủ trưa, nhưng vẫn là nguy hiểm, đúng vậy. Tôi đã
thấy nhiều người trôi tuột vào tình trạng lão hóa từ khi đến đây, đôi khi họ
còn làm nhiều hơn là trôi tuột - đôi khi họ lao xuống với tốc độ của một
chiếc tàu ngầm bị đắm. Họ đến đây phần lớn vốn ổn thỏa - mắt mờ và dính
liền với gậy chống, có thể lỏng lẻo một chút ở bàng quang, nhưng mặt khác
vẫn ổn thỏa - thế rồi điều gì đó xảy ra với họ. Một tháng sau, họ chỉ còn
ngồi lì trong phòng TV, trân trối nhìn Oprah Winfrey trên TV bằng những
con mắt đờ đẫn, quai hàm xệ xuống, với một li nước cam bị quên lãng, ngả
nghiêng và nhỏ giọt trên một bàn tay. Một tháng sau nữa, bạn phải nhắc tên
con cái khi chúng đến thăm họ. Rồi một tháng sau đó, bạn phải nhắc họ nhớ
lại tên của chính họ. Điều gì đó xảy ra cho họ, thế đấy: Georgia Pines xảy ra
với họ. Thời gian ở đây giống như một thứ acid yếu, trước hết bào mòn kí
ức, sau đó là khát vọng được sống.