giờ tôi đã kể. Để tôi biết mình cần gấp rút và làm điều đó trong khi còn kịp.
Vì tôi cũng như nó - đang đến nơi ấy.
- Đến đâu?
- Ổ, cô biết mà. - Tôi trả lời và chúng tôi ngắm nhìn ông Jingles một lúc
trong yên lặng. Rồi không vì lí do gì để có thể kể cho bạn nghe, tôi lại ném
ống chỉ ra, mặc dù Elaine đã yêu cầu tôi không làm. Về mặt nào đó, có lẽ
chỉ vì chuyện con chuột rượt đuổi một ống chỉ giống như người già có
phiên bản ân ái chậm rãi và cẩn thận của họ - có thể bạn không muốn xem
chuyện đó, bạn vốn còn trẻ và tin rằng khi bước vào tuổi xế chiều, một
ngoại lệ sẽ được tạo ra trong trường hợp của bạn, nhưng họ vẫn còn muốn
ân ái.
Ông Jingles đuổi theo ống chỉ lần nữa, rõ ràng là đau đớn, và cũng rõ ràng
(ít nhất đối với tôi) bằng tất cả lòng vui thích mê đắm ngày xưa.
- Cửa sổ Isinglass. - Elaine thì thào, nhìn con chuột đang chạy.
- Cửa sổ Isinglass. - Tôi đồng ý và mỉm cười.
- John Coffey chạm vào con chuột theo cách anh ta chạm vào anh. Anh ta
không chỉ làm cho anh tốt lên so với những điều tồi tệ mắc phải lúc ấy, anh
ta còn khiến cho anh... gì nào, đề kháng?
- Tôi nghĩ nói thế là hay.
- Đề kháng với những gì rốt cuộc sẽ đốn gục tất cả chúng ta như cây cối bị
mối mọt. Anh... và nó. Ông Jingles. Khi anh ta khép ông Jingles trong bàn
tay.
- Đúng. Sức mạnh nào đó chảy trong người John đã làm được - dù sao tôi
nghĩ như vậy - và bây giờ nó đang tàn lụi. Những con mối đã gặm thủng vỏ
cây. Tốn nhiều thời gian hơn bình thường nhưng rồi chúng cũng đến. Có thể
tôi sống thêm được vài năm, tôi đoán người vẫn sống lâu hơn chuột nhưng
thời gian của ông Jingles đã cạn.
Con chuột chạy đến cái ống chỉ, khập khễnh chạy quanh, ngã vật sang bên
thở hào hển (chúng tôi thấy sự hô hấp của nó qua bộ lông xám nhấp nhô
như làn sóng) , rồi nó đứng lên và bắt đầu liều lĩnh đẩy nó trở lại bằng mũi.
Lông nó màu xám, dáng đi không vững nhưng cặp mắt hạt thị ngời sáng
như bao giờ.