Nàng lẻn ra khỏi phòng khi đêm đến. Tay cầm chiếc đèn lồng,
nàng đi lang thang giữa đống đồ đạc bằng gỗ quý và những chiếc
rương đầy vải vóc, lụa là, chén đĩa. Những chiếc váy treo trên móc
có nẹp như cánh bướm còn mép váy xòe như quạt. Hoa cỏ, chim chóc,
cây cối, mây trời, núi non và biển cả được thêu tỉ mỉ và viền chỉ
vàng. Trên một chiếc bàn thấp, nàng phát hiện thấy một chiếc
đàn cổ cầm hình một chiếc lá chuối sơn mài màu đen ngọc đã rạn.
Tim nàng thắt lại. Nàng nhận ra vật quý nhất trong bộ sưu tập của
gia đình, cây đàn mà Mẹ Lưu đã lấy ra khỏi tủ và chùi cẩn thận như
một cây đàn mới tinh. Nàng đặt một tay lên đó.
“Cảm ơn cha!” Nàng thì thầm. Những dòng nước ngập đôi mắt
nàng. Khi đã kết hôn, nàng sẽ không còn được cùng cha đến chợ,
không được đi chọn đá và thân gỗ! Nàng sẽ không còn được giúp cha
tìm những dụng cụ mà ông để mất liên tục, không còn được canh lò
nấu cho cha luôn có rượu nóng, không còn được thổi tiêu khi cha
chơi đàn cổ cầm.
Cây đàn có sáu dây lụa mới lên. Khi nàng vuốt qua, nhạc cụ cất
tiếng, trầm và đơn điệu, như khi người ta thổi vào một chiếc tù và
của bộ tộc man di. Cây đàn thuộc về nàng thơ Sái Văn Cơ sống cách
đó hai trăm năm dưới triều nhà Hán. Cha nàng là Sái Ung, nhà thơ
nổi tiếng, một tay viết thư pháp, một tay chơi đàn cổ cầm, có
nhiều học trò, trong đó có những người nổi tiếng trong chiến
tranh và những hoàng đế Hoa Hạ. Khi triều nhà Hán sụp đổ,
khoảng thời gian chia cắt và những cuộc chiến tranh đẫm máu bắt
đầu. Sái Ung chết trong tù. Một bộ tộc man di đã cướp phá kinh đô
nhà Hán. Nàng Sái Văn Cơ bị bắt đem đến những thảo nguyên Tây
Bắc. Nàng mới chỉ hai mươi ba tuổi. Nàng sống trong gió lạnh,
uống sữa bò Tây Tạng suốt mười hai năm và sinh hạ hai người con
trai cho tộc trưởng. Khi tướng Tào Tháo, một học trò của cha nàng,
trở thành quân vương mới của Trung Hoa, ông ta cho một xe chở