Cô dừng lại, nghĩ tới Bea, cô chưa bao giờ biết nên trả lời câu hỏi này
của mọi người thế nào. “Ba đứa,” cuối cùng cô cũng đáp lại. Anh nhận thấy
sự do dự của cô, không biết nên hiểu ra sao. “Còn chồng em? Liệu anh có
thích anh ta không?”
“Frank ư?” Cô chợt nhớ đến những cuộc nói chuyện khổ sở của cô với
Tuck về Frank và tự hỏi không biết Dawson đã biết được bao nhiêu. Không
phải vì cô không tin tưởng Tuck giữ được bí mật, mà là vì cô đột nhiên có
cảm giác rằng Dawson sẽ biết ngay nếu cô nói dối.
“Bọn em đã ở bên nhau một thời gian dài.”
Dawson dường như ngẫm nghĩ về lựa chọn từ ngữ của cô trước khi anh
đứng lên khỏi bàn thợ. Anh đi ngang qua cô, hướng về phía ngôi nhà, bước
đi với dáng vẻ uyển chuyển của một vận động viên. “Anh đoán là bác Tuck
đã đưa em chìa khóa, phải không? Anh cần thứ gì đó để uống.” Cô chớp
mắt ngạc nhiên.
“Đợi đã! Bác Tuck đã nói với anh chuyện đó à?”
Dawson quay người lại, tiếp tục đi giật lùi. “Không.”
“Vậy thì làm sao anh biết được?”
“Bởi vì bác ấy không gửi chìa khóa cho anh, và chắc hẳn một trong hai
người chúng ta phải giữ nó.”
Cô đứng yên tại chỗ, suy nghĩ, vẫn cố gắng đoán xem làm thế nào mà
anh biết được, cuối cùng thì cô cũng đi theo anh lên lối dẫn lên nhà.
Anh thong thả bước lên bậc thềm dẫn lên hiên nhà, và dừng lại ở cửa.
Amanda lục tìm chìa khóa trong ví, chạm lướt qua người anh khi cô ta chìa
khóa vào ổ. Cánh cửa lạch cạch bật mở.
Không khí bên trong nhà thật mát mẻ, và ý nghĩ đầu tiên của Dawson là
nội thất của ngôi nhà là một phần nối tiếp của bản thân cánh rừng: toàn là
gỗ, đất, và các vết ố tự nhiên. Các bức tường bằng ván gỗ và sàn nhà bằng
gỗ thông đã xỉn màu và nứt ra theo thời gian, những tấm rèm cửa màu nâu
không che hết được những khe hở bên dưới các cửa sổ. Các tay vịn và đến
tựa lưng trên chiếc xô pha kẻ sọc đã bị sờn gần hết. Lớp vữa trên lò sưởi đã