hắn. Có lẽ cậu bé sẽ lộ ra chứng ban đỏ hoặc một vài chứng bệnh trẻ con
khác.
Phiền muộn, bà nghỉ ngơi một lúc trong phòng bà. Một bó trần châu mai
đập vào mắt bà. Bà cúi xuống trên chiếc bàn tròn gỗ đào hoa tâm, màu gỗ
nâu sẫm sáng bóng đậm đà và ấm cúng dưới chiếc khăn trải có lỗ. Bà nhắm
mắt lại và vùi mặt vào những đóa hoa êm mịn mùa hè, mà cái hương vị
ngọt nồng của nó, khi bà hít thở sâu vào, đã có một lời thầm thì cay đắng
một cách lạ lùng.
Khi bà đứng dậy, hơi bị tê cóng, và để đôi mắt bà bơ phờ thơ thẩn trên
các đóa hoa, cái bàn, căn phòng, thì một làn sóng của nỗi buồn thảm đắng
cay dâng lên trong người bà. Bất thần đầu óc bà trở nên hoảng sợ, bà nhìn
quanh căn phòng và dọc theo các bức vách, và lập tức nhìn đến tấm thảm,
cái bàn với các bông hoa trên đó, chiếc đồng hồ, và các bức họa trông lạ
lùng và không ăn nhập gì với nhau; bà thấy tấm thảm cuộn lên, các bức
tranh xếp lại, và tất cả đồ đạc được chất lên một chiếc xe hàng sẽ mang đi
tất cả đồ vật này, bây giờ không nhà hoặc người, mang đi tới một nơi mới
mẻ, xa lạ, lãnh đạm. Bà thấy Rosshalde đứng hoang vắng với các cánh cửa
cái và cửa sổ đóng lại, và bà cảm thấy nỗi bơ vơ và buồn thảm của sự chia
tay nhìn trừng trừng đến bà từ các luống hoa của khu vườn.
Chỉ trong một vài giây phút tất cả cái đó cùng đến một lượt. Cái cảm giác
ấy đến và đi giống như một tiếng kêu hạ giọng nhưng khẩn thiết từ trong
bóng tối, giống như sự phóng chiếu một cách vắn tắt từng mảnh cái hình
ảnh của tương lai. Và tư tưởng dâng lên một cách rõ ràng với ý thức của bà
từ cái cõi mù mịt của cảm tính rằng chẳng mấy lâu nữa bà sẽ là kẻ không
nhà với Albert và với Pierje bệnh hoạn của bà, chồng bà sẽ rời bỏ bà, và cái
nỗi lạnh lùng bơ vơ trông trải của những năm không có tình yêu sẽ nằm
trong linh hồn bà suốt cả thiên thu. Bà sẽ sống cho các đứa con của bà,
nhưng bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy trở lại cái đời sống diễm lệ của bà mà
bà đã hy vọng Veraguth sẽ trao tặng cho bà, và cái đòi hỏi kín đáo mà bà đã