tưởng bệnh hoạn rằng ông là một lão già, một kẻ có thể chẳng làm gì được
hơn là chịu đựng đời sống. Cái trạng thái bị thôi miên cam chịu cứng cỏi
sâu xa này đã tan vỡ, và qua cái lỗ hổng nó tuôn trào ra những động lực linh
tính vô thức của đời sống đã từ lâu bị ngăn trở và lừa đảo.
Ông càng nghe những giọng điệu ấy rõ ràng bao nhiêu thì bên trong
người ông càng run rẩy bấy nhiêu, nỗi hoảng sợ kinh hồn ở cái thức giấc tối
hậu ấy. Đã nhiều lần ông nhắm đôi mắt bị chói lóa của ông lại như là mỗi
sợi xôn xao của hữu thể ông đã nổi loạn chống lại sự hy sinh cần thiết ấy.
Johann Veraguth ít khi hiện diện ở ngôi biệt trang, các bữa ăn của ông
gần như được mang đến họa phòng và các buổi chiều ông thường ở lại
thành phố. Nhưng khi ông gặp vợ ông hoặc Albert thì ông im lặng dịu dàng
và cho thấy đã quên hết tất cả mối căm hờn của ông.
Ông có vẻ như ít chú ý đến Pierre. Ngày xưa ông đã mời mọc cậu bé đến
họa phòng ít nhất một lần một ngày và giữ cậu ở đấy hoặc đi dạo vườn với
cậu. Bây giờ thì suốt ngày sẽ trôi qua mà ông không thấy đứa bé hoặc mong
mỏi sự hiện diện của em. Khi cậu bé băng qua con đường mòn của ông, ông
hôn em một cách ân cần trên trán, nhìn vào đôi mắt em với vẻ buồn rầu lơ
đãng và tiếp tục đi.
Một buổi trưa Veraguth đi đến chỗ lùm cây dẻ. Một ngọn gió thư thái thổi
đến, và cơn mưa ấm áp lất phất những hạt li ti. Âm nhạc từ các cánh cửa sổ
mở ở căn nhà vọng đến. Nhà họa sĩ dừng lại và lắng nghe. Ông không biết
bản nhạc ấy. Nó vang lên thuần khiết và trang trọng trong sự cấu tạo đẹp đẽ
rất chính xác, rất cân đối của nó, và Veraguth đã lắng nghe với sự ân cần
thích thú. Điều lạ lùng là âm nhạc này có vẻ như là âm nhạc dành cho người
tuổi tác; nó đã vang vọng trưởng thành và nhẫn nhục thế kia, không hề có
cái cuồng nhiệt của âm nhạc thuộc thần lưu linh mà ông đã yêu thích vượt
quá mọi điều khác nữa vào thuở thanh xuân của ông.