này, giờ đây những coi sóc lo liệu đối với nàng ấy mà nói, đã hầu như là
thừa thãi.
Tiết chiều oi ả, chuồn chuồn chờn vờn trước khoảng sân, tàu lá chuối đậu
bờ tường lặng cả người. Sắc trời dần ngả tím, mây đùn đen nặng trĩu phía
trời tây, dễ sắp mưa cũng nên.
Bữa nay tinh thần Tự Bảo Lâm có phần khá hơn, nàng ấy hé mắt nhìn
một lượt những người xung quanh, tôi nắm tay hỏi: “Có muốn uống nước
không?”
Nàng ấy nhận ra tôi rồi giãn nụ cười.
Song cũng không uống nước, một khắc sau thì lại chìm vào mê man, thế
rồi hơi thở cũng đuối dần.
Tôi triệu Thái y đến, ông ấy bắt mạch xong, liền bảo: “Nếu Bảo Lâm có
phúc hơn người, ắt sẽ bình yên vô sự.”
Tuy tôi chẳng mấy hiểu biết, song cũng ngộ ra lời Ngự y nói, chứng tỏ
thế là đã vô phương cứu chữa.
Vĩnh Nương toan khuyên tôi nên rời khỏi đó, nhưng tôi không nỡ. Vĩnh
Nương đành sai ngươi âm thầm đi chuẩn bị hậu sự, sắc trời thêm âm u,
trong phòng hầm hập như cái lồng hấp, cung nữ nhón chân đi châm đèn.
Ánh nến chan hòa, rọi xiên bên giường bệnh. Sắc mặt Tự Bảo Lâm trắng
bệch, khóe miệng mấy máy suốt giờ, tôi áp tai bên môi nàng ấy mới nghe rõ
2 chữ được thốt ra nhẹ bẫng như chẳng hề có âm thanh, thì ra là “Điện Hạ”.
Lòng tôi buồn rười rượi, có lẽ trước lúc lâm chung, nàng ấy chỉ mong
được gặp Lí Thừa Ngân lấy 1 lần.
Thế mà tôi lại không tài cán nào khuyên nhủ được chàng đến đây.