có hại ; ăn với quả dâu thì đẻ con không thuận, trứng muối chữa trẻ con tả lỵ
rất hay, lấy nghĩa : thịt vịt mà chữa bệnh lỵ, muối sao chữa được bệnh đi lỵ
ra máu. Mỡ vịt tính ngọt, lạnh lắm, không độc. Chủ trị người bị bệnh phong
hư, bệnh sốt rét, bệnh phù thũng. Mề vịt bóc lấy lượt da vàng trong mề,
nướng thực khô, tán thực nhỏ, uống với nước chữa bệnh hóc xương. Phân
vịt lạnh, không độc, cởi được nút buộc, làm tan khí nhiệt, ẩn phục ở trong
người, vắt lấy nước, lọc uống hay mài lấy nước bôi, giải các thứ độc ở loại
kim như vàng, bạc, đồng, sắt, chữa giun cắn và nhọt độc sưng, hòa lòng
trắng trứng gà bôi với phân vịt là khỏi. Nhãi trong mồm vịt, chữa trẻ em
trúng phong, rũ liệt, đầu và chân tay quặt ra đằng sau, lấy nước giãi giỏ vào
mồm, lại chữa trẻ con lên đầu bống, sưng giái, lấy nhãi vịt đực bôi khỏi
ngay.
(Nhập môn thực-loại) : Thịt vịt bổ cho hư tổn, điều hòa các tạng-phủ,
thông đường nước, lợi bàng-quang (tiểu tiện) chữa phong-hư, bị lạnh, tiêu
nhiệt nóng độc, khỏi động kinh và chữa đi lỵ ra máu. Đầu vịt chữa bệnh phù
thũng, thông đường tiểu. Thịt vịt kỵ ăn với mộc-nhĩ và hồ-đao, và ăn lẫn với
đậu-sị. Vịt trời tính mát không độc, thịt bổ bên trong, và thêm khí lực lại bổ
những người hư hao thêm sức mạnh, điều hòa trong vị rất bổ-ích cho những
người ốm đau, tiêu các thứ đồ ăn, làm lợi đường thủy, khỏi nhiệt-độc ở khắp
mình mẩy người, đã lâu ngày mà không khỏi, ăn nhiều thịt này, thì khỏi
ngay, từ tháng chín đến lập-xuân ăn thì tốt lắm.
Lại còn một giống gọi đao-áp, nhỏ hơn vịt giời, nhưng ăn tuyệt ngon,
thịt, chủ bổ hư-hao, còn một loại giống vịt trời là loài nhạn. (Xin xem ở vần
nh.)
10. Ba-đậu
巴豆
(Lãn-ông loại thổ) : ba-đậu là hột màn-để, hột ba-đậu, hột giang-tử, ba-
đậu được khí nóng mãnh-liệt của hỏa, tính rất độc (không phải sống thì ôn
mà chín thì hàn). Vào kinh thủ-túc dương-minh (đại-tràng và vị) phá tan hòn
cục tích-tụ, đờm tích lưu-cữu, nước đầy ở đại-tràng, trị chứng ôn-ngược
nóng, lạnh rửa sạch tạng-phủ, khơi thông các chỗ bế-tắc, trừ được tà quỹ lại