Chủ : tán phong-hàn phong-nhiệt, làm nhẹ đầu nhẹ mắt, chữa đau bụng, đau
răng, phong-độc ngứa ở ngoài da, chỉ huyết và đau ở vết kim-thương và
chữa bỏng nước, lửa, dầu.
15. Bạch-thược-dược
白芍藥
(Lãn-ông mộc-bộ) : bạch-thược vị đắng, chua, bình, tính hàn, không
độc, khí mỏng, nhẹ, vị dầy, nặng (âm là giáng) vào can-kinh (kinh lạc thuộc
bộ can). Chủ-trị : làm tả hỏa trong can, chữa huyết nhiệt, đau mắt, đau dưới
nách, thu liễm can, nén ép khí can, bổ khí âm trong tì mà trị đầy ở trong,
chữa đau bụng tả, lỵ, trong bụng không điều hòa, bực phiền, lại thêm khí
lực, liễm kim khí ở trong phế mà trị ho, trội ách ngược lên, lại liễm thu vị
khí, trị tấu lý không bền (lỗ chân lông rỗng hư) chuyên vào phần huyết ở
trong kinh tì, mà bổ mọi chỗ hư lao, làm lui nóng, thu liễm âm-khí, chữa
mũi ra máu tươi, làm yên thai, trị mọi bệnh đàn bà, làm lợi huyết, bổ huyết,
thu liễm huyết trong can chữa bệnh xích-đới (ra khí hư đỏ và trắng) bạch-
đới, thuốc này chuyên bổ huyết, vừa thu vừa giáng, là thuốc điều hòa bên
trong, chữa mọi chứng của đàn bà rất tốt. Cùng đi với : bạch-truật thì bổ tì-
dương ; mà bạch-thược bổ tì âm, dùng với sâm, kỳ, thì bổ ích cho hơi sức,
dùng với khung thì tả can, tá có sài-hồ, đơn-bì, sơn-chi thì tả hỏa, mà làm
nhuận khô táo, tá có sinh-khương, nhục-quế, can-khương thì ôn trong kinh
mà làm tan khí hàn thấp. Sợ lạnh mà đau bụng (đau bụng lạnh) thì gia thêm
quế, đau bụng mà sợ nóng, thì gia hoàng-cầm. Cùng sâm, truật thì bổ ở
trong và thêm khí lực, cùng với quy, địa-hoàng thì bổ âm-huyết, tuy vậy
người mới đẻ xong, hay người huyết hư hàn cùng người tháng đông đau
bụng, thì phải kiêng cẩn thận, vì sợ hàn lại gặp lạnh vậy. Nhưng nếu lại tá có
khương và quế, chế sao bằng rượu, thì không còn sợ hàn nữa. Chế : muốn
vào tì thì sao với rượu, muốn nuôi huyết thì sao với nước mật, muốn vào can
thì để sống mà dùng. Nếu đau bụng không phải huyết hư, thì phải kiêng, vì
có chữa đau bụng cần phải cay và tán, mà thược-dược lại chua và thu liễm
nên không dùng.