cái mới. Hợp với bán-hạ làm xứ, ghét tạo-giác, sợ lê-lô.
24. Bạch-chỉ
白芷
(Lãn-ông mộc-bộ) : là cây bạch-chỉ, vị, cay, tính ôn, không độc, thăng
(lên) nhiều hơn là giáng (xuống) thuốc thuộc dương ; vào kinh, thủ túc
dương-minh (đại-tràng vị) chứng dương-minh nhức đầu, nhức lông mày,
chảy nước mắt, đau răng, bệnh phong tê, ngứa gãi, rắn cắn, nốt thương kim-
khí, sưng ruột có nước và mủ, ung thư ở vú và mũi, bệnh tràng-phong
(phong vào ruột) trẻ con lở, đàn bà bệnh đới-hạ, trắng và đỏ (ra khí hư)
thuốc này lại cần để trừ gió và làm táo khí thấp. Lại trị đàn bà mất kinh sưng
trong âm-môn, bệnh huyết ứ đau tim, ngực và nách chội đau, là thuốc để đổi
cũ thay mới, những chứng bệnh kể trên cần phải dùng bạch-chỉ.
(Đan-phương) : trị ruột có ung thư đi xuống những chất tanh thối, dùng
bạch-chỉ một lạng, hồng-quì 2 lạng, khô-phan, bạch-thược đều 5.d.c. tán nhỏ
sáp-ong viên bằng hột ngô, uống lúc đói thang bằng nước gạo, đợi hết mủ
lấy thuốc khác bổ. Phàm những ung thư đã vỡ thì nên giảm bớt đi, dùng làm
tá để chữa sang thư ung nhọt, vì tính nó hay khu trục phong và hút chất mủ
và chất nước.
(Tham-khảo) : Bạch-chỉ có tên phương-hương, trạch-phân.
(Hòa-hán) : loại này sản ở Tứ-Xuyên là chính, vị rất thơm, sản ở Hàng-
châu gọi là Hàng-chỉ, vị cay gắt dùng vào thuốc không được tốt. Cây bạch-
chỉ giồng 3 năm, mùa xuân nẩy mầm cây cao 4, 5 thước, lá có 2 lớp, mọc so
le, gốc ở chỗ phát sinh ra lá, có một cái bẹ, nổi to như cái vòng ôm lấy thân
cây, rồi cuống lá mọc ở đó mà ra thành tàu, lá nhỏ mọc cân nhau 2 hay 4
cùng một tàu xòe ra, rìa lá có răng cưa nhỏ, mùa hạ đầu cành nở hoa trắng 5
cánh nhỏ nối liều nhau xòe như cái ô, quả già hay vỡ, giồng 3 năm mới có
hoa, quả hết vụ thì chết khô, củ già, củ cái to một tấc hay nửa tấc, có từng
đốt phình lên, trên có ngấn bẹ là cuống lá, ở giữa chỗ chẻ cũ, chất mềm dẻo,
ngoài sắc vàng nhạt, có nét rạch, ngửi thơm lắm, vị ngọt cay, tháng 2, 8 lấy
củ phơi khô, những củ đã ngoài 2 năm mới dùng được, khi lấy củ không nên