mỡ, gân thịt, cả bên trong lẫn bên ngoài, tầm bị hại biến thành phấn trắng,
khi mới phát bệnh tự tầm ăn một, đến ăn ba thì tầm chết cứng. Cương-tàm
nên dùng tầm chết khi ăn lá dâu, lấy vào khoảng tháng 4, 5 thì tốt, mà nên
dùng những con khô táo, nếu bị ướt thì có độc không nên dùng. Chế : lấy
nước gạo rửa sạch, bỏ những chất bẩn đi, sấy nỏ, rồi vò nát như phấn sẽ
dùng. Tính : mặn, cay, bình không có độc. Chủ : trừ gió, hóa đờm trị động
kinh, tê cuống họng, cổ họng, đau, trúng phong mất tiếng, trị trẻ con kinh
phong (sài kinh) khóc đêm, trừ bỏ ba loại trùng, tẩy sạch nốt ruồi đen sạm,
làm da mịn mát đẹp, chữa đàn ông bệnh âm-rũ (kém phòng sự) đàn bà băng
lậu trắng và đỏ, sản hậu đau bụng.
(Nhập-môn phong loại) : tính phù mà thăng dương (nổi lên trên) chủ
tán phong.
(Đan-khê) : cương-tàm hay giúp khí mà thanh hóa cho kim (phế) trị tật
tướng hỏa kết trệ, nên dùng nó để trị phong, và chữa bệnh lao thương mà
gầy, bị trúng phong mất tiếng, bán thân bát toại, bệnh đầu óc trùng phong
đau nhức, mụn nhọt ở mồm, bệnh hầu tê nguy hiểm, tẩy vết điểm trên mặt
và ngấn vết, rôm sẩy khắp mình, lại chữa bệnh tràng nhạc ở cổ, ung thư ở
lưng, trị sưng trĩ khoét da thịt bị hỏa độc đơn độc sưng đỏ đau buốt, phong ở
ngoài da như kiến bò, đàn ông sau khi thương hàn âm-khí kém héo, đàn bà
băng lậu bệnh bạch-đới hạ, sau khi đẻ hãy còn đau, lại chữa tia sữa không
thông, trị trẻ con cấp kinh, sài kinh, khóc đêm, trúng phong cấm khẩu sài
chép mép, có thể trừ trùng lại kiêm phát hãn.
28. Bạch-biển-đậu
白扁豆
(Lãn-ông) : loại thổ ta gọi đậu ván trắng, vị ngọt khí thơm, tính ôn,
không độc-chủ vào kinh túc thái-dương (bàng-quang). Dương-minh (vị) trị :
tránh được khí nắng, thanh giải thấp nhiệt, làm tĩnh nguyên-khí ở tì, trị bệnh
hoắc-loạn, điều hòa khí ở trung-tiêu và hạ-tiêu, chỉ tả, giúp tì khí làm thanh
trọc khí, giúp thanh-khí được trong sáng, thông-khí lý-khí cả tam-tiêu, giải
mọi thứ độc và chữa bệnh đới hạ (ra khí hư). Chế : ngâm bỏ vỏ, tẩm nước
gừng sao, ăn nhiều bổ cả năm tạng, đầu không bạc.