đều, hoặc băng huyết, lậu huyết, lậu khí, ra khí hư, chủ khỏe gân mà thông
huyết mạch, trị lao và bổ hư. Hoa trị thổ huyết mồm, ra huyết mũi và chỗ bị
thương ra huyết nhiều. Mầm có tên là mao-duẩn (măng cỏ gianh) tính mát,
ăn được, lại rất lợi cho trẻ con, làm thông ruột non, chỉ bệnh hạ huyết và
tiểu-tiện ra huyết, khỏi nốt thương bằng loại kim loại mộc loại thạch. Lạn-
mao là thứ cỏ gianh lợp trên mái nhà đã lâu ngày, vì chịu sương gió (lấy ở
bốn góc nhà) tính bình, chữa thổ-nục-huyết, nấu với rượu mà uống, nước
giọt gianh giải độc ở đá vân-mẫu.
40. Bạch-đậu-khấu
白豆蔻
(Tham-khảo) : sản ở nước già-cô tên là đa-cốt.
(Bản-thảo) : tên là xác-khấu, loại này sản ở Việt-nam miền núi Trung-
bộ, ở núi Đông-ba, cho nên gọi là đông-ba-khấu, là hạng tốt nhất. Ở Xiêm
cũng có những hạng vừa, còn thì xấu cả. Cây bạch-đậu-khấu, từa tựa cây
chuối, lá giống lá đỗ-nhược cao 7, 8 thước chất lá bóng và tròn, mùa Đông,
mùa Hạ đều không héo, hoa mầu vàng nhạt, quả sắc trắng màu tro, hình
tròn, quả nhỏ sắc xanh mỗi chùm có nhiều quả như chùm nho, chất giòn rễ
vỡ ; có lông nhỏ và cứng, thành phần quả chia làm 3 ngăn ; trong đựng từ 9
đến 12 hột, mầu vàng nhạt, nhấm cay hăng và thơm, ngậm trong mồm thấy
có khí ôn (âm ấm) rất thích, quả tròn nhọn hơn quả hạnh khiên-ngưu (tức
quả bìm-bìm) vỏ trắng và dầy, hột giống sa-nhân ; làm thuốc bỏ vỏ sao,
tháng 7, 8 hái quả phơi khô. Tính : cay, đại ôn, không độc. Chủ : làm ấm vị
và hành khí, dùng cho các bệnh nôn ọe, ợ chua rạo rực, bụng không tiêu-hóa
và bệnh ở phổi, làm tan khí lạnh tích tụ khỏi bệnh phản vị (lộn mề) nôn ọe
tiêu cơm, hạ khí, đậu-khấu chạy khắp cả tam tiên, chuyển qua trong vinh
ngoài vệ, mài và tiêu-hóa dần đi được.
(Nhập-môn hàn-loại) : sắc trắng như đậu, phồn thịnh rất nhiều, nên gọi
là : bạch-đậu-khấu, trong quả có nhiều hạt, không độc. Thăng là dương vậy,
vào kinh thủ thái-âm (phế) và thái-dương (tiểu-tràng) đặc biệt có một khí vị
thanh cao bổ trên thượng-tiêu, vì nguyên-khí thiếu hụt, làm tán lãnh-khí ở