người quen biết từ ngày ở làng Thọ và tuyến X42. Họ đánh giá
cao sự tiến bộ của mấy chàng kỹ sư trẻ trên tuyến Trường Sơn.
Nhìn lên tấm bản đồ kế hoạch phát triển tuyến ống vào tận
sông Bạc, Ngọc cảm thấy tự hào vì tuyến đang như một mũi
tên lao vào mặt trận, mà anh và đồng đội thì luôn ở điểm đầu
của mũi tên đó.
Một hôm, bố nói với Ngọc: Hôm nay họp đồng hương làng.
Con đi cho biết mặt các bác, các chú.
Cuộc họp được tổ chức trong hội trường của một câu lạc bộ
bên bờ Hồ Gươm. Làng của Ngọc là một làng khá đặc biệt. Rất
nghèo, nhưng có truyền thống hiếu học. Ngày xưa, vì thiếu
ruộng nên những người vợ làm nghề dệt lụa, tần tảo nuôi
chồng học để đi thi. Thi rồi, người đỗ cao thì đi làm quan, đỗ
tú tài trở xuống thì đi xa nhà, làm thầy đồ. Những gia đình
như thế, người chồng làm gia sư ở với chủ nhà cứ phải giữ ý,
mất hết tự do. Còn người vợ ở nhà thì cô đơn nuôi mẹ già, con
nhỏ. Dân làng truyền nhau một câu từ xưa lắm: "Trai vô tội vi
tù, gái hữu phu vị quả" (Con trai vô tội mà sống như tù, con gái
có chồng mà như quả phụ). Từ khi thành lập Đảng Cộng sản
Đông Dương, nhiều người thoát ly đi hoạt động. Bởi vậy, sau
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, số hộ có vợ hoặc chồng
người làng làm việc ở cơ quan Trung ương, các nhà máy, dạy ở
các trường trung cấp, đại học, đã lên tới hàng ngàn. Trong đó
có nhiều người là cán bộ cao cấp. Sống xa quê, những buổi gặp
mặt như thế này là lúc họ ríu rít hỏi thăm nhau về cuộc sống,
về con cái. Không khí thật ấm áp tình làng nghĩa xóm. Gần
cuối buổi, ông Chủ tịch danh dự Hội đồng hương làng lên nói
chuyện với bà con. Đó là một người cao lớn, khoan thai và
đáng kính. Ngọc đã biết tên ông từ nhỏ qua chuyện kể của
người làng và qua sách báo. Ông đã thoát ly khỏi làng từ những
năm ba mươi và gây dựng phong trào Việt kiều ở nước ngoài