Cục trưởng Nguyễn Điền chăm chú nhìn lên tấm bản đồ
vận tải. Đến cuối năm 1974, tuyến đường ống dẫn dầu của bộ
đội Trường Sơn đã đi hết cực Nam Trung bộ và đang tiến vào
chiến trường Đông Nam bộ. Tuyến ống từ hậu phương vào đến
Long Đại thì rẽ thành hai nhánh chạy về hai phía đông và tây
của dãy Trường Sơn. Hai nhánh đó gặp nhau ở Plei Khốc, ngã
ba biên giới Vệt Nam - Lào - Campuchia. Hai tuyến đường ống
đó chính là hai trục đường hành quân của bộ đội ta từ Bắc vào
Nam. trên tuyến đường ống ở phía Tây Trường Sơn, gian nan
nhất là những đoạn cửa khẩu vượt qua biên giới, như 050, 911.
Đây là nơi thời tiết phân chia hai vùng mưa nắng. Đây cũng là
nơi địa hình hiểm trở, địch đánh phá vô cùng quyết liệt để
ngăn chặn. Vượt qua biên giới rồi, sẽ là những trọng điểm như
ngầm bản Lắc, Pha Bang, Đường 9... Đoạn tuyến phía đông
Trường Sơn từ Quảng Trị trở vào thi công khi không còn sự uy
hiếp của không lực Mỹ, nhưng lại quá cơ cực với điều kiện địa
hình thời tiết. Hơn bốn trăm cây số tuyến ống phải vượt qua
những ngọn núi, con đèo hiểm trở như Đá Bàn, A Dớt, A Tép,
Đèo Lò Xo..., những con suối hai bên bờ dựng đứng như Ka Ti,
những dòng sông mưa về nước xiết như Đăk Rông, sông
Bung... Vượt qua địa hình ấy trong điều kiện mùa mưa, việc
vận chuyển ống, kéo máy bơm vào vị trí, chuyển những chiếc
bể sắt cồng kềnh vào kho có những lúc tưởng như không thể.
Chẳng những thế, tuyến vượt qua những cứ điểm cũ của địch
và những vùng địch từng đánh phá ác liệt, một số bộ đội
thương vong do vấp phải mìn, bom bi, bom vướng còn sót lại.
Để thi công được tuyến đông Trường Sơn, Bộ Tư lệnh đã phải
điều thêm lực lượng của hai Trung đoàn 952 và 953 sang tăng
cường cho Trung đoàn 967. Sau Hiệp định Paris, tốc độ thi
công của bộ đội đường ống cũng thần tốc như bước tiến của đại
quân. Chỉ riêng mùa khô 1973 - 1974, bộ đội đường ống Trường
Sơn đã thi công được hơn bảy trăm cây số ống và hơn một vạn
mét khối kho, bằng toàn bộ khối lượng thi công cả năm năm