Ngày hôm đó, Chỉ số Trung bình Công nghiệp Dow Jones, chỉ số thị
trường cổ phiếu Mỹ lâu đời nhất, đóng cửa ở mức 875, hầu như không đổi
so với mười năm trước đó, và thấp hơn gần 17% so với mức cao nhất là
1.052 vào tháng 1/1973. Tâm lý bi quan sau một thập niên rưỡi thất vọng là
dễ hiểu. Nhưng thay vì cáo chung, vốn cổ phần của Mỹ chỉ vài năm sau đó
trở thành một trong các thị trường đầu cơ giá lên lớn nhất thời hiện đại. Sau
khi chạm điểm đáy vào tháng 8/1982 (ở mức 777), chỉ số Dow tăng lên hơn
ba lần chỉ trong năm năm, đạt mức cao kỷ lục là 2.700 vào mùa hè năm
1987. Sau giai đoạn ngắn bán ra ồ ạt vào tháng 10/1987, chỉ số này tiếp tục
đà tăng. Sau năm 1995, tốc độ tăng thậm chí còn nhanh hơn. Ngày
27/9/1999, chỉ số này đóng cửa ở mức 10.395, có nghĩa là giá cổ phiếu
trung bình của một công ty lớn của Mỹ đã tăng lên gần mười hai lần chỉ
trong hai mươi năm. Vào ngày hôm đó, độc giả tờ Business Week đọc mẩu
tin sau trong tâm trạng phấn khích:
Để chỉ số Dow đạt 36.000 điểm thì mọi thứ không cần cải thiện gì nhiều,
theo James K. Glassman và Kevin A. Hassett trong cuốn sách Dow 36.000:
The New Strategy for Profiting From the Coming Rise in the Stock Market
Dow 36.000: Chiến lược mới để hưởng lợi từ đợt tăng sắp tới trên thị
trường cổ phiếu). Họ lập luận rằng thị trường hiện nay đã xứng đáng lên
tới 36.000 điểm, và giá cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng tới mức mục tiêu này trong
vòng 3 tới 5 năm tới, khi các nhà đầu tư cũng đi đến kết luận ấy... Thị
trường này - thậm chí kể cả khi tỷ lệ giá trên thu nhập ở mức 30
là một món hời. Theo ước tính của họ, "mức giá hoàn toàn hợp lý" của thị
trường là... 100 lần thu nhập.
Bài báo này được xuất bản chưa đầy bốn tháng trước vụ sụp đổ của bong
bóng dot-com - bong bóng dựa trên kỳ vọng được phóng đại về thu nhập
tương lai của các công ty công nghệ. Tới tháng 10/2002, chỉ số Dow giảm
xuống còn 7.286, mức thấp chưa từng có kể từ cuối năm 1997. Vào thời
điểm viết cuốn sách này (tháng 4/2008), chỉ số này ở mức khoảng một phần
ba mức mà Glassman và Hassett đã dự đoán.