cuộc chinh phục này. Các đoàn tàu vận chuyển, có lúc lên tới 100 tàu, đã
đưa 170 tấn bạc mỗi năm vượt qua Đại Tây Dương để cập bến ở Seville.
Một phần năm tất cả những gì làm ra thuộc về hoàng gia, và số tiền này
chiếm tới 44% tổng chi phí của hoàng gia vào thời điểm kỷ lục ở giai đoạn
cuối thế kỷ 16.
Nhưng cách người Tây Ban Nha tiêu tiền cũng đảm bảo
rằng của cải mới tìm thấy của Tây Ban Nha sẽ khiến cho toàn bộ lục địa
châu Âu nhận được sự kích thích tiền tệ. "Đồng tám" của Tây Ban Nha
được làm ra dựa vào đồng thaler của Đức (là gốc của chữ dollar - "đô la"
sau này) và trở thành đồng tiền toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Nó không chỉ
được chi cho những cuộc chiến tranh kéo dài của Tây Ban Nha ở châu Âu
mà còn cho quan hệ thương mại đang phát triển nhanh chóng giữa châu Âu
với châu Á.
Dẫu thế, tất cả bạc ở Tân Thế giới không thể khiến nước Cộng hòa Hà
Lan bất trị phải quỳ gối, không thể khiến nước Anh phải quy phục vương
triều Tây Ban Nha, cũng không thể cứu Tây Ban Nha khỏi sự suy thoái
không thể tránh khỏi của nền kinh tế và của cả đế quốc. Cũng như vua
Midas, các vị vua Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 là Charles V và Philip II
nhận ra rằng việc dư thừa thứ kim loại quý báu không chỉ là ân sủng mà còn
là tai họa. Lý do là gì? Họ đã đào quá nhiều bạc để chi trả cho những cuộc
chiến tranh chinh phục của mình, khiến cho thứ kim loại này sụt giảm giá
trị nghiêm trọng dựa trên cơ sở tương quan sức mua với các hàng hóa khác.
Trong cuộc "cách mạng giá cả" ảnh hưởng đến toàn châu Âu từ những năm
1540 tới 1640, giá thực phẩm - từng không có xu hướng tăng trong ba trăm
năm trước đó - đã tăng mạnh. Tại Anh (nước mà chúng tôi có số liệu về giá
đầy đủ nhất), chi phí sống đã tăng bảy lần trong khoảng thời gian này. So
với tiêu chuẩn hiện nay thì đây không phải là mức lạm phát cao (trung bình
khoảng 2% mỗi năm), nhưng đây là mức tăng khá cao giá bánh mì theo tiêu
chuẩn thời Trung Cổ. Trong lòng Tây Ban Nha, việc dư thừa bạc cũng là
một "tai ương tài nguyên" giống như việc dư thừa dầu hỏa ở bán đảo Ả
Rập, Nigeria, Ba Tư, Nga và Venezuela trong thời hiện đại. Nó làm suy
giảm động cơ của hoạt động kinh tế sản xuất, trong khi củng cố sức mạnh