32
[TDK I 1982: 43].
33
Bản dịch của Lê Anh Minh, căn cứ theo [TDK 1987: 8]. Nguyên văn chữ
Hán: “Tổ Sƣ tiếu đạo: Nễ thân khu tuy thị bỉ lậu, khƣớc tƣợng cá thực tùng quả
đích hồ tôn. Ngã dữ nễ tựu thân thƣợng thủ cá tính thị, ý tƣ giáo nễ tính Hồ. Hồ
tự khử liễu cá thú bàng, nãi thị cá cổ nguyệt. Cổ giả lão dã, nguyệt giả âm dã,
lão âm bất năng hóa dục. Giáo nễ tính Tôn đảo hảo. Tôn tự khử liễu thú bàng,
nãi thị cá tử hệ. Tử giả nhi nam dã, hệ giả anh tế dã, chính hợp anh nhi chi bổn
luận. Giáo nễ tính Tôn bãi.” So với bản dịch [TDK I 1982: 48], những ngƣời
dịch đã cắt bỏ sáu mƣơi bốn chữ trong nguyên tác (từ “Nễ thân khu tuy thị bỉ
lậu” đến “Giáo nễ tính Tôn đảo hảo”). Thật đáng tiếc, vì đó là một đoạn rất hay
liên quan đến quan niệm âm dƣơng và Dịch lý trong thuật luyện nội đan, tức
thiền, của đạo Lão.
34
“Quả thật, ta nói cùng các ngƣơi, nếu các ngƣơi không biến cải, và trở nên nh
ƣ con trẻ, thì hẳn chẳng đƣợc vào nƣớc trời đâu.− Verily, I say unto you, except
ye be converted and become as little as children, ye shall not enter into the
kingdom of heaven.” Matthew, 18:3. The Gideons, 1967.
35
Tƣơng truyền tác giả bài th ơ này là hòa thƣợng Bố Đại 布 袋
36
[TDK I 1982: 165, 166].
37
[TDK I 1982: 165, 166]
38
Trung h ữu 中 有 ; trung âm, trung ấm 中 陰 [Soothill 1962: 10].
39
[TDK X 1988: 181].
40
[Soothill 1962: 438] giải thích hai chữ “sổ châu” nhƣ sau: “A rosary; to tell
beads, which consists of various numbers, generally 108.”
41
[Từ Hải 1948: 607] viết: “Sổ châu giả, yếu đƣơng tu mãn nhất bách bát khỏa,
nhƣ kỳ nan đắc, hoặc ngũ thập tứ khỏa, hoặc nhị thập thất, hoặc thập tứ khỏa,
diệc giai đắc dụng.” (Chuỗi hạt nên đủ một trăm lẻ tám hột, nếu khó đƣợc nhƣ
thế, thì hoặc năm mƣơi bốn hột, hoặc hai mƣơi bảy hột, hoặc mƣời bốn hột, đều
có thể dùng đƣợc.) Lê Anh Minh dịch.
42
九 轉 功 成, 九 轉 丹 成
43
Theo [ Đoàn Trung Còn 1963: 357-365], từ thuật ngữ cửu bộ kinh cho đến
cửu trụ tâm, tổng cộng là hai mƣơi hai mục từ về số 9; trong đó liên quan đến
thiền thì có: cửu thiền, cửu thứ đệ định, cửu trụ tâm. Theo [Soothill 1962: 15-
20], từ thuật ngữ cửu, rồi cửu thƣợng duyên hoặc, cho tới cửu trai nhật, tổng c
ộng có đến sáu mƣơi bảy mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có:
cửu trụ tâm, cửu tâm luân, cửu tƣởng quán, cửu thứ đệ định, cửu chủng đại thiề
n
44
Vì ngẫu là cặp, nên trai gái cƣới nhau, đƣợc chúc lành nên duyên giai ngẫu.
Giai ng ẫu là tốt đôi. Trƣớc kia, danh từ luật pháp Việt Nam gọi chồng hoặc vợ
là phối ngẫu (spouse), tức là một ngƣời kết cặp với ngƣời khác (phối hợp, phối
kết) cho đủ một đôi (ngẫu)
45
Lê Anh Minh, “Tản Mạn Về Thƣ Pháp”, tuần san Sài Gòn Thứ Bảy, số 421,
ngày 06-3-1999, tr. 30.