bất kỳ hải cảng thú vị nào giữa nơi đó và dòng sông London. Ta quen biết
tất cả các cảng đó và chúng cũng biết ta. Cứ thả ta xuống bất kỳ bờ kè hoặc
bãi bồi nào tại các cảng đó là ta lại thấy mình ở nhà.”
“Cháu tin rằng bác đã có những cuộc hành trình tuyệt vời,” Chuột Nước
nói, ngày càng có vẻ thích thú. “Đằng đẵng hàng tháng không thấy bóng
đất liền, thực phẩm dự trữ cạn dần, nước uống cũng phải dè sẻn, mà tâm
hồn bác vẫn cảm thông với đại dương mênh mông, và những thứ đại loại
như vậy, phải không?”
“Làm gì có chuyện ấy,” bác Chuột Biển thành thật nói. “Cái cuộc sống
như anh miêu tả chẳng phù hợp với ta chút nào. Ta hoạt động trong nghề
kinh doanh ven biển và rất hiếm khi không nhìn thấy đất liền. Chính những
lần vui sống ở trên bờ lại hấp dẫn ta chẳng kém bất kỳ chuyến đi biển nào.
Ôi, những bến cảng phương nam! Cái mùi của chúng, cái ánh đèn trên sóng
nước ban đêm, quyến rũ lạ lùng!”
“Ồ, có lẽ bác đã chọn cho mình cách tốt hơn rồi,” Chuột Nước nói,
giọng có vẻ không chắc chắn lắm. “Vậy hãy kể cháu nghe đôi chút về công
việc ven biển của bác đi, nếu bác vui lòng, và một con vật có ý chí có thể
hy vọng thu hoạch được gì từ cái nghề ấy, để mà sưởi ấm những năm tháng
cuối đời mình bằng những kí ức huy hoàng bên lò sưởi; bởi, cháu phải thú
nhận với bác rằng hôm nay cháu cảm thấy cuộc đời mình hơi chật hẹp và tù
túng.”
“Chuyến đi vừa rồi,” bác Chuột Biển bắt đầu kể, “rốt cuộc đã đưa ta tới
xứ này, và ta rất hy vọng sẽ về đến trang trại của mình trong nội địa.
Chuyến đi này sẽ được coi như một mẫu mực hay cho bấy kỳ chuyến đi
nào. Như thường lệ, những chuyện phiền muộn ở gia đình đã khời đầu
chuyến đi. Bão tố ở gia đình lên đến đỉnh điểm và ta bỏ nhà lên một chiếc
tàu buôn nhỏ sắp sửa rời đi Constantinople, theo những đường biển tuyệt
vời mà mỗi con sóng ở đó đều rộn ràng một kỷ niệm bất hủ, tới những hòn
đảo thuộc Hy Lạp (33), rồi tới Levant (34). Thời gian đó là những ngày huy