chuyện tấn công vào đó, chẳng ăn thua gì đâu. Chúng quá mạnh so với
chúng ta.”
“Thế thì hết rồi!” thằng Cóc nức nở, nước mắt rơi trên những tấm nệm
ghế xôpha. “Cháu sẽ đi đăng ký nhập ngũ và sẽ không bao giờ nhìn thấy
Lâu đài Cóc thân yêu của mình nữa.”
“Nào, hãy vui lên, Cóc à!” bác Lửng nói. “Có nhiều cách để giành lại
một vị trí chứ đâu chỉ bằng việc đánh chiếm. Ta còn chưa nói hết cơ mà.
Bây giờ ta sẽ cho các cháu biết một điều hết sức bí mật.”
Thằng Cóc từ từ ngồi dậy và lau khô nước mắt. Những điều bí mật có
một sức hút rất lớn đối với nó, bởi nó chẳng bao giờ giữ bí mật được một
điều gì, và nó còn thích cái loại chuyện giật gân vớ vẩn mà nó biết rồi lại
đem kể cho một con vật khác nghe, sau khi đã hứa chắc chắn là sẽ không
tiết lộ chuyện đó ra.
“Có-một-con đường-ngầm,” bác Lửng xúc động nói, “từ bờ sông gần
ngay đây dẫn thẳng đến trung tâm Lâu đài Cóc.”
“Ồ, thật vô lý, bác Lửng ạ!” thằng Cóc nói, hơi có vẻ thiếu nghiêm túc.
“Bác lại nghe mấy câu chuyện huyên thuyên mà người ta kể ở những quán
rượu quanh đây rồi. Cái Lâu đài Cóc này thì cháu biết tường tận như lòng
bàn tay. Làm gì có chuyện như thế, cháu cam đoan với bác đấy!”
“Này anh bạn trẻ của ta,” bác Lửng nói bằng giọng rất nghiêm nghị,
“Bố anh, một con vật đáng kính trọng – đáng kính trọng hơn rất nhiều so
với vài người khác mà ta biết – là một người bạn đặc biệt của ta, và ông ấy
đã nói với ta nhiều lần rằng ông ấy không bao giờ muốn kể chuyện này cho
anh biết. Ông ấy đã phát hiện ra lối đi ấy – tất nhiên là ông ấy đã không tạo
ra nó. Lối đi này đã được hoàn thành hàng trăm năm trước khi ông ấy đến
sống ở đó – và ông ấy đã sửa sang, dọn dẹp sạch sẽ bởi ông ấy nghĩ một
ngày nào đó lối đi ấy sẽ có ích, trong trường hợp gặp rắc rối hoặc nguy