dụ xảy ra hỏa hoạn thì thằng Cóc ra sao? Giả dụ ngói trên mái nhà bị gió
cuốn đi, hoặc tường bị lún hoặc nứt, hoặc các cửa sổ bị vỡ thì thằng Cóc
thế nào? Giả dụ các gian phòng bị gió lùa – bản thân ta cũng ghét gió lùa –
thì thằng Cóc ở đâu? Không, ở trên kia mà ra ngoài trời để rong chơi còn
sinh hoạt ở trong nhà thì cũng khá là tuyệt; nhưng cuối cùng thì phải xuống
lòng đất – đó là khái niệm về tổ ấm của ta!”
Chuột Chũi nhiệt liệt tán thành, và vì vậy bác Lửng trở nên rất thân
thiện với nó. “Khi ăn xong bữa trưa,” bác nói, “ta sẽ dẫn cậu đi thăm khắp
nơi ở nhỏ bé này của ta. Ta chắc là có thể cậu hiểu rõ giá trị của nó. Cậu
hiểu được kiến trúc nhà ở cần phải thế nào, cậu có hiểu biết đấy.”
Thế là, sau bữa ăn trưa, khi mà hai đứa kia yên vị tại chỗ ngồi bên lò
sửa và đã bắt đầu tranh luận sôi nổi về chủ đề lươn, thì bác Lửng thắp một
cái đèn lồng và bảo Chuột Chũi đi theo mình. Qua phòng lớn, hai bác cháu
tiếp tục đi dọc một trong những đường hầm chính, và ánh sáng chập chờn
của chiếc đèn lồng thoáng cho thấy ở mỗi bên đường đều có những gian
phòng lớn nhỏ, vài gian chỉ to bằng cái tủ, còn những gian khác thì gần
rộng rãi và bề thế như phòng ăn của anh chàng Cóc. Một lối hẹp rẽ thước
thợ dẫn họ đến một hành lang nữa, và ở đây mọi thứ lại cũng như thế.
Chuột Chũi choáng người về kích thước, quy mô và những phân nhánh của
cả cái hành lang này, về độ dài của những lối đi mờ tối, về những mái vòm
chắc chắn của các nhà kho đầy ắp, các công trình nề ở khắp nơi, các cột trụ,
cửa tò vò, các vỉa hè. “Bác lửng à, làm thế nào,” cuối cùng nó nói, “mà bác
có đủ thời gian và sức lực để làm tất cả những thứ này? Thật đáng kinh
ngạc!”
“Quả thật là đáng kinh ngạc,” bác Lửng hồn nhiên nói, “nếu như là ta đã
làm ra những thứ đó. Song thực ra ta đã chẳng làm cái gì hết – chỉ có việc
dọn sạch các lối đi và các gian phòng,, cần chừng nào thì dọn chừng ấy.
Khắp quanh đây còn vô khối nữa cơ. Ta biết là cậu không hiểu, ta phải giải
thích cho cậu mới được. Chà, cậu biết không, cách đây rất lâu, đúng ở cái