sinh cơ lập nghiệp, khuếch trương và phát triển. Chúng chẳng bận tâm gì về
quá khứ – chẳng bao giờ, chúng quá ư bận rộn. Nơi này vốn tự nhiên đã
nhiều gò đống và đầy những hang hốc, nhưng điều đó phần nào lại là một
lợi thế. Mà chúng cũng chẳng băn khoăn gì về tương lai – cái tương lai mà
có lẽ con người sẽ lại kéo đến ở – vì điều này rất có thể xảy ra. Đến thời
gian này, khu Rừng Hoang đã khá đông cư dân, vẫn là tất cả những loài
mọi khi, tốt có, xấu có và thờ ơ cũng có – ta chẳng cần nêu đích danh. Phải
có đủ loài mới làm nên một thế giới. Ta cho rằng giờ đây bản thân cậu cũng
biết đôi chút về chúng.”
“Quả thật là cháu biết.” Chuột Chũi nói, thoáng một chút run rẩy.
“Chà, chà,” bác Lửng vừa nói vừa vỗ vỗ lên vai bạn, “đó là lần đầu tiên
cậu nếm mùi bọn chúng đấy, cậu hiểu chứ? Bọn chúng thật ra cũng không
đến nỗi quá bất lương, mà tất cả chúng ta đều phải dĩ hòa vi quý. Nhưng
ngày mai ta sẽ báo tin cho tất cả mọi người, và ta nghĩ rằng cậu sẽ không bị
rắc rối gì thêm nữa. Bất kì người bạn nào của ta đều có thể dạo chơi ở bất
kỳ nơi nào mà cậu ta thích trong vùng này, nếu không thấy cậu ấy là ta sẽ
biết nguyên do vì sao.”
Khi quay trở lại gian nhà bếp, họ thấy Chuột Nước đang đi đi lại lại, rất
bồn chồn. Bầu không khí dưới mặt đất đang đè nặng lên nó khiến nó bực
bội và dường như nó thật sự e rằng dòng sông sẽ chạy đi mất nếu nó không
có mặt ở đó mà chăm sóc. Vì vậy nó mặc áo khoác vào và lại nhét hai khẩu
súng lục vào thắt lưng. “Mau lên, Chuột Chũi à,” nó nói, vẻ lo lắng, khi
nhìn thấy hai bác cháu. “Bọn mình phải ra đi khi trời còn sáng. Tớ không
muốn lại qua một đêm nữa trong khu Rừng Hoang đâu.”
“Sẽ ổn cả thôi, anh bạn cừ khôi của tôi ơi,” Rái Cá nói. “Anh sẽ cùng đi
với các chú, mà có bịt mắt lại anh cũng thuộc mọi nẻo đường, và nếu có cái
đầu nào cần ăn đấm thì các chú có thể hoàn toàn tin cậy ở anh mà cho nó ăn
đấm.”