“Bên cạnh nó và cùng nó, và trên nó và bên trong nó,” Chuột Nước nói.
“Nó là anh chị em của tớ, và là các bà cô bà dì, là bầu bạn, là đồ ăn thức
uống, vá (cố nhiên) là nơi tắm rửa giặt giũ của tớ. Cái mà nó không có thì
chẳng đáng phải có, và cái mà nó không biết thì cũng chẳng đáng phải biết.
Chúa ơi! Tớ đã cùng với nó bên nhau biết bao lần! Dù là vào mùa đông hay
mùa hạ, mùa xuân hay mùa thu, nó bao giờ cũng có những trò vui và những
điều phấn khởi. Thời gian có triều cường vào tháng Hai khi mà các kho
chứa và tầng hầm của tớ đầy ắp rượu, thì không tốt đối với tớ, dòng nước
màu nâu cứ nhảy ngang qua cửa sổ căn phòng ngủ đẹp nhất của tớ, hoặc
một lần nữa, khi nước triều rút đi để lộ những vạt đất bùn có mùi bánh nho
khô và đám cói cùng cỏ dại làm tắc cả các kênh rạch. Khi ấy tớ có thể lang
thang hầu khắp đáy sông mà không bị ướt chân để tìm thêm thức ăn và
kiếm những đồ vật mà những người vô ý thức đã vứt ra khỏi thuyền của họ.
“Mà như vậy thì đôi khi cũng hơi buồn tẻ nhỉ?” Chuột Chũi đánh bạo
hỏi. “Chỉ có cậu và dòng sông chẳng có ai khác nữa để mà chuyện trò ư?”
“Chẳng có ai mà chuyện trò – ồ, tớ chẳng nên nghiêm khắc với cậu,”
Chuột Nước nhẫn nhịn nói. “Cậu còn xa lạ với nó và cố nhiên cậu không
hiểu. Ngày nay bờ sông đông đúc đến nỗi nhiều người kéo nhau rời đi nơi
khác. Ồ không, dòng sông đâu còn như xưa nữa. Nào rái cá, chim bói cá,
chim lặn, gà nước, tất cả bọn chúng cứ bận rộn suốt ngày và bao giờ cũng
muốn người ta làm một việc gì đó – cứ như thể người khác chẳng có việc
riêng nào phải lo liệu cả!”
“Đằng kia là cái gì thế?” Chuột Chũi vừa hỏi vừa vẫy vẫy một bàn tay
về phía vùng rừng lờ mờ viền quanh những cánh đồng đầy cỏ ngập nước
phía bên kia sông.
“Chỗ ấy hả? Ồ, đó chỉ là Rừng Hoang,” Chuột Nước nói gọn. “Bọn tớ ít
khi tới đó, bọn tớ là cư dân của bờ sông.”
“Cư dân ở đó họ có tốt không?” Chuột Chũi nói, hơi có vẻ lo sợ.