trong ngành thám tử tư. Nhưng chỉ nửa tiếng thôi mà – Gurney có thời gian
nửa tiếng không?
Với bao cảm giác lẫn lộn ngay từ đầu, Gurney đồng ý. Tò mò thường lấn
át bản tính trầm lặng trong anh; trong trường hợp này anh tò mò vì nhận
thấy có chút kích động ẩn nấp dưới cách nói chuyện ngọt ngào của Mellery.
Và, dĩ nhiên, một câu đố cần được giải mã thu hút anh mạnh mẽ hơn bản
thân anh chịu thừa nhận.
Sau khi đọc lại bức email lần thứ ba, Gurney bỏ lại vào tập hồ sơ rồi để
tâm trí thơ thẩn quanh những hồi ức được gợi mở từ tiềm thức: anh nhớ
những lớp học buổi sáng khi Mellery trông liêng biêng và chán chường vì
rượu, nhớ những giờ trưa khi y dần hồi tỉnh, nhớ những lần men rượu nhóm
lên những cơn bộc phát hóm hỉnh sâu sắc đậm chất Ai Len của y vào sớm
tinh mơ. Y là diễn viên thiên bẩm, là ngôi sao không thể phủ nhận của hội
kịch nghệ trong trường – một thanh niên tràn đầy sinh lực ở quầy rượu
Shamrock là thế, nhưng trên sân khấu thậm chí lại còn sung sức hơn gấp đôi.
Y là người phụ thuộc vào khán giả – một tay chỉ có thể đứng hiên ngang
được nhờ vào thứ ánh sáng của sự thán phục vẫn luôn dung dưỡng y.
Gurney mở tập hồ sơ ra rồi lướt qua bức email một lần nữa. Cách Mellery
mô tả mối quan hệ giữa hai người làm anh khó chịu. Mối giao thiệp giữa họ
không thường xuyên, không nhiều ý nghĩa, không thân thiết như những gì
Mellery ám chỉ. Nhưng anh có cảm tưởng rằng Mellery đã chọn lựa ngôn từ
rất thận trọng – rằng tuy đơn giản nhưng bức thư đã được viết đi viết lại, cân
nhắc và sửa chữa – rằng những lời nịnh hót, cũng như những thứ khác trong
thư, đều có mục đích cả. Nhưng mục đích đó là gì? Mục đích hiển nhiên là
bảo đảm khả năng Gurney đồng ý gặp mặt và đưa anh vào cuộc điều tra tìm
lời giải cho ‘bí ẩn’ nào đó đã nảy sinh. Ngoài mục đích đó ra thì rất khó nói
chính xác. Vấn đề này rõ ràng đối với Mellery rất quan trọng – chỉ như vậy
mới giải thích được bao nhiêu thời gian và công sức tỉ mỉ mà y đã bỏ ra để
trau chuốt ngôn từ cho mạch lạc và truyền cảm, để truyền đạt sự vồn vã trộn
lẫn khốn đốn.