“Jonah!” bà ta hét to hơn, vừa hét vừa bật dậy khỏi xô pha và đi nhanh
đến mức đáng kinh ngạc qua lối đi có mái vòm bên trái vào một trong những
cánh cửa cuối lối đi. Bà ta đập tay lên cửa. “Mở cửa! Nhanh lên! Mở cửa!”
“Cái chó chết gì…?” Clamm nói.
“Tao nói mở ra ngay, Jonah!”
Có tiếng khóa lách cách và cửa mở ra phân nửa, để lộ một thằng bé béo
phì to con gần bằng bà mẹ mà nó giống đến mức đáng sợ – giống đến cả cái
thái độ vô cảm lạ lẫm trong đôi mắt, khiến Gurney tự hỏi liệu đó là do di
truyền, do thuốc hay do cả hai. Cái đầu húi cua của nó nhuộm trắng một
màu.
“Tao đã bảo có tao ở nhà thì không được khóa cửa kia mà. Vặn nhỏ tiếng
lại đi. Nghe như có người đang bị giết trong đó vậy.” Chẳng biết mẹ con họ
có ai cảm thấy ngượng ngùng trước tình huống hiện tại không, nhưng rõ
ràng không ai thể hiện như vậy cả. Thằng bé hờ hững nhìn Gurney và
Clamm. Không còn nghi ngờ gì nữa, Gurney trầm ngâm, đây là một trong
những gia đình đã quá quen với sự can thiệp của cơ quan phúc lợi xã hội đến
nỗi những người lạ trông như quan chức trong phòng khách chẳng gây bất
kỳ sự chú ý nào. Thằng bé quay lại nhìn mẹ.
“Cho con ăn kem que bây giờ được không?”
“Mày biết lúc này không được mà. Vặn tiếng nhỏ lại đi, nếu không đừng
hòng có kem ăn.”
“Trước sau cũng có thôi mà,” nó nói lạnh tanh rồi đóng cửa lại ngay trước
mặt bà ta.
Bà ta quay trở lại phòng khách rồi ngồi xuống xô pha. “Cái chết của
Albert làm nó sốc lắm.”
“Bà Rudden,” Clamm nói theo cái cách ‘ta tiếp tục nào’ của cậu ta.
“Thanh tra Gurney đây cần hỏi bà một số câu.”
“Trùng hợp đến buồn cười không kia chứ? Tôi có bà dì cũng tên Bemie
đấy. Tôi mới nghĩ đến dì sáng nay thôi.”
“Gurney, không phải Bemie,” Clamm nói.